Phúc Lành Của Đất – Growth of the Soil (Chương 13)
Knut Hamsun
Những công việc mùa đông lại giống như trước; chở gỗ, sửa chữa nông cụ. Inger trông nhà và may vá vào thời gian rỗi. Hai cậu bé lại trở xuống làng cho học kỳ dài ở trường. Trong nhiều mùa đông trước chúng đã có một đôi ván trượt tuyết dùng chung; chúng xoay xở khá tốt theo cách đó trong lúc còn ở nhà, một đứa chờ khi đứa kia đang tới lượt sử dụng của mình, hoặc một đứa đứng sau đứa kia. Phải chúng đã xoay xở tốt với chỉ một đôi ván trượt, nó là vật đẹp nhất mà chúng biết, và chúng vô tư, vui sướng. Nhưng ở dưới làng mọi sự lại khác hẳn. Trường học có đầy ván trượt; ngay cả những đứa trẻ ở trại Breidablik dường như cũng có mỗi đứa một đôi. Và kết cục của chuyện này là Isak phải làm thêm một đôi mới cho Eleseus, Sivert giữ đôi cũ để dùng riêng.
Isak làm nhiều hơn thế; anh mua cho bọn trẻ quần áo tốt và những đôi ủng thật bền. Nhưng khi việc đó đã xong, anh tới chỗ người chủ tiệm và hỏi mua một chiếc nhẫn.
“Một chiếc nhẫn ư?” Ông ta nói.
“Một chiếc nhẫn đeo tay. Phải, tôi đã làm ăn khấm khá nên giờ phải tặng cho vợ tôi một chiếc nhẫn.”
“Anh muốn lấy một chiếc nhẫn bạc hay nhẫn vàng, hay chỉ là nhẫn đồng mạ trông giống như vàng?”
“Cứ cho là một chiếc nhẫn bạc.”
Người chủ tiệm suy nghĩ một lát.
“Nghe này, Isak,” ông ta nói. “Nếu anh muốn làm điều đúng đắn và tặng cho vợ anh một chiếc nhẫn mà cô ta không phải xấu hổ khi đeo nó, tốt hơn anh nên mua một chiếc nhẫn vàng.”
“Cái gì!” Isak nói lớn. Dù có thể trong thâm tâm anh đã từng suy nghĩ suốt về một chiếc nhẫn vàng.
Họ nghiêm túc trao đổi với nhau về vấn đề đó, và đồng ý thực hiện một cách đo lường nào đó đối với chiếc nhẫn. Isak trầm ngâm và lắc đầu, cho rằng đó là một việc to tát quá, nhưng người chủ tiệm từ chối đặt bất cứ thứ gì khác ngoài một chiếc nhẫn vàng. Isak trở về nhà, âm thầm hài lòng với quyết định của mình, nhưng hơi lo lắng vì tất cả những chuyện đó, vì mức độ quá xa mà anh đã thực hiện, tất cả chỉ vì tình yêu dành cho vợ anh.
Mùa đông ấy có một đợt tuyết đẹp ở mức trung bình, và vào đầu năm, khi đường xá đã có thể đi lại được, dân làng bắt đầu chở những cây cột điện lên những cánh đồng hoang, bỏ chúng lại ở những chặng giữa đường. Họ đưa những nhóm lớn lên, ngang qua Breidablik, ngang qua trại Sellanraa, và gặp những nhóm mới ở mé ngoài, đang đi xuống với những cột điện từ mé kia dãy đồi – tuyến đường đã hoàn thành.
Cuộc sống cứ thế tiếp tục ngày này sang ngày khác, không có sự kiện lớn nào. Dù sao thì có gì để mà xảy ra chứ? Mùa xuân tới, và công việc dựng cột bắt đầu. Brede Olsen lại có mặt ở đó với các nhóm thợ dù lẽ ra anh ta nên làm việc trên đất của mình vào mùa đó. “Thật lạ lùng khi anh ta có thời gian,” Isak nghĩ.
Bản thân Isak không có đủ thời gian để ăn và ngủ; việc cần kíp trước mắt bây giờ là phải hoàn thành công việc trong mùa, với tất cả đất đai anh đã đưa vào trồng trọt.
Rồi, giữa hai mùa, anh lợp mái cho cái máy cưa, và có thể bắt đầu lắp các bộ phận của máy. Và bạn hãy nhìn xem, anh không dựng nên một công trình bằng gỗ quá diệu kỳ, nhưng nó vững chắc, như một người khổng lồ của dãy đồi, đứng đó để giúp ích. Cái máy có thể hoạt động và cưa như một cái máy cưa vẫn thực hiện; Isak đã quan sát cẩn thận khi còn ở dưới làng và sử dụng tốt những gì anh quan sát được. Nó khỏe mạnh và nhỏ bé, cái máy cưa mà anh đã dựng nên này, nhưng anh hài lòng với nó; anh khắc ngày tháng bên trên cửa ra vào và đặt dấu hiệu của mình lên đó.
Và mùa hè năm ấy, cuối cùng một chuyện khác thường đã diễn ra ở Sellanraa.
Những người công nhân đường dây lúc này đã lên xa phía trên đồng cỏ đến mức một xế chiều nọ toán thợ đầu tiên đã tới nông trại và xin được trú lại đêm. Họ được cho ngủ trong cái kho thóc lớn. Vào những ngày tiếp theo, một toán khác lại tới, và tất cả đều ở trọ tại Sellanraa. Công việc tiếp tục tiến triển, vượt qua chỗ trang trại, nhưng những người thợ vẫn quay lại để ngủ trong kho thóc. Một chiều thứ Bảy viên kỹ sư phụ trách tới đó để trả tiền công cho thợ.
Khi trông thấy viên kỹ sư, Eleseus thấy tim nó nhảy chồm lên. Nó chuồn ra khỏi nhà để tránh bị hỏi han về cây bút chì màu. Ôi chao, giờ chắc sẽ gặp rắc rối to đây – và chẳng thấy Sivert đâu cả; nó sẽ phải một mình đối mặt với chuyện này. Eleseus lẩn vòng qua góc nhà như một bóng ma nhợt nhạt, bắt gặp mẹ nó, và cầu xin mẹ nó bảo Sivert tới. Giờ đây việc đó cũng chẳng giúp ích được gì.
Sivert ít suy nghĩ về chuyện đó hơn – nhưng khi đó nó không phải là thủ phạm chính. Hai anh em đi ra xa một chút và ngồi xuống, rồi Eleseus nói: “Bây giờ em hãy nói đó là em!”
“Em sao?” Sivert nói.
“Em nhỏ hơn, ông ấy sẽ không làm gì em đâu.”
Sivert suy nghĩ, và thấy rằng anh nó đang gặp cảnh khốn khó; nó cũng hãnh diện khi cảm thấy anh mình cần tới sự giúp đỡ của mình.
“Sao chứ, em có thể giúp anh qua khỏi chuyện này, có lẽ,” nó nói với một giọng chững chạc.
“Phải, nếu em chịu nhận!” Eleseus nói, và trao cho em nó mẩu bút chì màu còn lại. “Em có thể giữ lấy nó,” nó nói.
Chúng cùng quay về nhà, nhưng Eleseus nhớ ra nó có vài việc phải làm cho xong ở chỗ máy cưa, hay đúng hơn, ở cối xay lúa; có đôi việc nó phải ngó qua, và việc đó sẽ chiếm mất ít thời gian – nó chưa hoàn tất được. Sivert vào nhà một mình.
Viên kỹ sư ngồi đó, đang phát những tờ tiền giấy và tiền đồng. Khi ông ta đã xong việc, Inger mang bình sữa ra cho ông ta cùng một cái ly. Ông ta cám ơn nàng, rồi nói chuyện với bé Leopoldine, và khi nhận ra những hình vẽ trên tường, ông ta hỏi ngay ai đã làm điều đó. “Có phải là cháu không?” Ông ta hỏi, quay sang Sivert. Có lẽ người đàn ông này cảm thấy mình mắc nợ chút gì đó về sự hiếu khách của Inger, và khen ngợi những hình vẽ chỉ để làm nàng vui lòng. Về phần mình, Inger giải thích đầu đuôi: chính các cậu nhóc của nàng đã vẽ những hình đó – cả hai đứa bọn chúng. Chúng không có giấy cho tới khi nàng trở về nhà và chăm sóc mọi sự, vì thế chúng đã tô lên khắp các bức tường. Nhưng nàng không nỡ lau sạch chúng đi.
“Sao, cứ để như thế,” viên kỹ sư nói. “Giấy à, có phải bà đã nói thế?” Và ông ta rút ra một xấp giấy to. “Này, cứ vẽ trên đó cho tới khi chú quay trở lại. Và cháu làm thế nào để có bút chì?”
Sivert bước tới trước với mẩu bút chì nó có, và cho thấy mẩu bút chỉ còn chút xíu. Và trông kìa, người đàn ông cho nó một cây bút chì màu mới toanh, thậm chí còn chưa gọt. “Đây, bây giờ cháu có thể bắt đầu lại từ đầu. Nhưng nếu chú là cháu thì chú sẽ tô những con ngựa màu đỏ và những con dê màu xanh dương. Cháu chưa bao giờ nhìn thấy một con ngựa màu xanh dương, đúng không?”
Sau đó viên kỹ sư lên đường.
Ngay chiều hôm ấy, một người đàn ông từ dưới làng đến với một cái giỏ – ông ta trao một số chai gì đó cho những người thợ rồi lên đường trở về. Nhưng sau khi ông ta đi khỏi, khắp chốn không còn yên tĩnh nữa; có ai đó chơi một chiếc phong cầm, những người đàn ông lớn tiếng chuyện trò, và có tiếng hát hò, thậm chí có cả khiêu vũ, ngay tại Sellanraa. Một trong số những người đàn ông mời Inger ra nhảy, và Inger – ai có thể nghĩ về nàng như thế? – Nàng cười lớn đôi tiếng rồi đã thật sự nhảy hết vài vòng. Sau đó, một số khác lại mời nàng, và rốt cuộc nàng đã nhảy không ít chút nào.
Inger – ai có thể nói được nàng nghĩ gì trong đầu? Nàng đang khiêu vũ ở đây một cách vui vẻ, có lẽ là lần đầu tiên trong đời nàng; sau đó bị tìm kiếm và tận tình săn đón bởi ba mươi người đàn ông, và nàng chỉ có một mình, người duy nhất để chọn, không có ai để thế chỗ cho nàng. Và những người thợ đường dây lực lưỡng đó – họ nhấc nàng lên mới ghê làm sao! Tại sao lại không khiêu vũ? Eleseus và Sivert đã ngủ say trong căn phòng nhỏ, không hề bị quấy rầy bởi mọi tiếng ồn ào bên ngoài; bé Leopoldine thức giấc, nhìn mẹ nó một cách thắc mắc khi nàng đang nhảy.
Isak ở ngoài đồng suốt thời gian đó; anh đã đi ngay sau bữa ăn chiều, và khi anh trở về nhà để ngủ, một người nào đó đã mời anh một chai. Anh uống chút ít, rồi ngồi xem khiêu vũ, với Leopoldine trên đùi.
“Cô đang có một thời gian vui vẻ,” anh nói với Inger một cách tốt bụng, “đêm nay hãy nhảy cho đúng vào nhé!”
Một lúc sau, tiếng nhạc dừng lại, và cuộc khiêu vũ kết thúc. Những người thợ chuẩn bị lên đường – họ sẽ đi xuống làng trong phần thời gian còn lại của buổi chiều, và sẽ ở đó suốt ngày hôm sau, và quay trở lại vào sáng thứ Hai. Chẳng bao lâu mọi thứ ở Sellanraa lại hoàn toàn im ắng. Có hai người thợ lớn tuổi ở lại, họ quay trở về kho thóc để ngủ.
Trong đêm Isak thức giấc – Inger không có ở đó. Có lẽ nào nàng đi ra xem mấy con bò cái? Anh ngồi dậy và đi thẳng tới chuồng bò. “Inger!” Anh gọi. Không có tiếng trả lời. Những con bò quay đầu lại nhìn anh; mọi thứ đều yên tĩnh. Bất giác, theo thói quen cũ, anh đếm số đầu bò, đếm cả đàn cừu; có một con cừu cái có thói quen xấu là ngủ ở ngoài chuồng trong đêm, và lúc này nó đang ở ngoài, “Inger!” anh gọi thêm lần nữa. Vẫn không có tiếng trả lời. Chắc chắn nàng không thể cùng đi với họ xuống làng.
Đêm mùa hè sáng và ấm áp. Isak ngồi lại trên bậc cửa một lúc, rồi anh đi ra rừng để tìm con cừu. Và anh bắt gặp Inger. Inger và một người khác. Họ ngồi trong bụi thạch nam, nàng đang quay cái mũ lưỡi trai của anh ta trên một ngón tay, cả hai đang trò chuyện với nhau – có vẻ như họ lại theo đuổi nàng.
Isak chậm chạp bước về phía họ. Inger quay lại và trông thấy anh, và khom người về trước ngay tại chỗ nàng đang ngồi; mọi sự sống đều thoát ra khỏi người nàng, nàng rủ người xuống như một miếng giẻ.
“Ừm. Cô có biết là con cừu cái đó lại xổng ra ngoài không?” Isak hỏi. “Nhưng không, cô không biết đâu,” anh nói.
Tay thợ đường dây trẻ tuổi nhặt lấy cái mũ của mình và bắt đầu khép nép đi lảng ra xa. “Tôi sẽ đuổi theo những người kia,” anh ta nói. “Chúc ông bà ngủ ngon.” Không ai đáp lại.
“Thế ra cô đang ngồi ở đây,” Isak nói. “Có lẽ sẽ ở ngoài thêm chút nữa hả?” Và anh quay lưng trở về nhà. Inger đứng lên và đi theo sau. Và họ đi như thế, người đàn ông đi trước, người vợ theo sau, theo kiểu thắng ngựa con trước con sau. Họ về nhà.
Hắn Inger đã tìm ra thời gian để suy nghĩ. Ồ, nàng đã tìm ra một cách. “Tôi đang đi theo con cừu cái,” nàng nói. “Tôi thấy nó lại ra ngoài. Rồi một trong số những người thợ tới và giúp tôi tìm. Chúng tôi chỉ vừa ngồi xuống thì anh tới. Bây giờ anh sẽ đi đâu?”
“Tôi à? Có vẻ như tốt hơn tôi nên tự đi tìm con vật.”
“Không, không, đi vào nhà nằm nghỉ đi. Nếu có ai đó phải đi, hãy để tôi. Hãy vào nhà nằm nghỉ, anh cần được nghỉ ngơi. Còn về chuyện đó, con cừu có thể ở nơi nó đang ở, đây không phải là lần đầu.”
“Và để nó bị một con thú rừng nào đó ăn thịt,” Isak nói, rồi lại bước ra.
Inger chạy theo anh. “Đừng, đừng, không đáng làm như thế,” nàng nói. “Anh cần nghỉ ngơi. Hãy để tôi đi.”
Isak nhượng bộ. Nhưng anh không muốn Inger ra ngoài tìm kiếm một mình. Thế là họ cùng nhau đi vào nhà.
Inger quay đi tìm lũ trẻ ngay; đi vào căn phòng nhỏ để thăm hai cậu bé, như thể nàng đã đi ra ngoài vì một việc vặt rất tự nhiên; thật sự, gần như nàng đang cố gắng bù đắp lại cho Isak – như thể nàng mong anh sẽ yêu nàng nhiều hơn nữa vào tối hôm ấy – sau khi nàng đã giải thích mọi chuyện một cách rành mạch như thế. Nhưng không, Isak không dễ bị lay chuyển; anh thà là nhìn thấy nàng hoàn toàn đau khổ và mất tự chủ vì ăn năn còn hơn. Phải, điều đó hẳn sẽ tốt hơn. Điều quan trọng là nàng đã rủ người xuống trong giây lát khi anh tới chỗ nàng ngồi trong rừng; cái khoảnh khắc ngắn ngủi của sự xấu hổ – có gì là tốt nếu tất cả mọi thứ trôi qua quá sớm?
Vào hôm sau, anh cũng rất nhẹ nhàng, và đó là một ngày Chủ nhật; đi ra ngoài để nhìn cái máy cưa, nhìn cái cối xay, nhìn qua những cánh đồng, với bọn trẻ hay một mình anh. Có một lần Inger cố đi cùng với anh nhưng Isak quay đi: “Tôi sẽ đi lên chỗ dòng sông,” anh nói. “Trên đó có một thứ…”
Hẳn nhiên là anh đang có những phiền muộn trong đầu, nhưng anh âm thầm chịu đựng nó, và không tỏ vẻ gì. Ồ, có một cái gì đó thật vĩ đại ở Isak; cũng giống như người Do Thái, được hứa hẹn và cứ bị lừa dối mãi, nhưng vẫn cứ tin tưởng.
Tới thứ Hai sự căng thẳng đã chùng xuống, và cùng với ngày qua, ấn tượng về buổi chiều thứ Bảy bất hạnh ấy phai mờ dần. Thời gian có thể chữa lành nhiều thứ; một xiên thịt, một cốc sữa, một bữa ăn ngon và một đêm ngon giấc, và nó sẽ chữa lành những vết thương tệ hại nhất. Sự phiền muộn của Isak không tệ hại như lẽ ra nó có thể; nói cho cùng, anh không chắc rằng anh có bị đối xử xấu hay không, ngoài ra, anh còn có nhiều việc khác phải nghĩ tới; mùa thu hoạch đang tới gần. Và cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, giờ đây đường điện thoại đã hoàn thành; họ sẽ được sống yên bình trong một khoảng thời gian. Một con đường sáng ánh đèn, một đại lộ của đức vua, đã cắt ngang qua bóng tối của rừng; có những cột điện và dây điện chạy dài qua những ngọn đồi.
Vào ngày thứ Bảy trả lương kế tiếp, đợt trả cuối ở đó, Isak tìm cách đi ra khỏi nhà – anh muốn thế. Anh đi xuống làng với pho mát và bơ, và quay lại vào tối Chủ nhật. tất cả những người thợ đã rời khỏi kho thóc; có nghĩa là gần như tất cả; người đàn ông cuối cùng đã bị trượt lộn nhào ra khỏi sân – có nghĩa là tất cả, trừ kẻ cuối cùng. Isak có thể thấy rằng như thế cũng chưa phải đã an toàn trọn vẹn, vì có một cái bọc còn nằm lại trên sàn kho thóc. Chủ nhân của nó là ai anh không thể nói, và cũng không cần biết, nhưng có một cái mũ lưỡi trai trên cái gói – một sự xúc phạm con mắt.
Isak lẳng cái bọc ra ngoài sân, ném cái mũ theo sau nó, và đóng cửa lại. Rồi anh đi vào chuồng ngựa và nhìn qua cửa sổ. Và nghĩ thế này: “Cứ để cái bọc nằm đó, cứ để cái mũ nằm đó, chúng có thể là của một người. Hắn là một thứ đồ cặn bã, không đáng cho mình bỏ công” – có thể anh đã nghĩ thế. Nhưng khi gã đó tới nhặt lại cái bọc của mình, y sẽ không thể ngờ rằng Isak có mặt ở đó để nắm chặt cánh tay y và để lại một dấu tím bầm trên cánh tay đó. Còn về việc tặng cho y một cú đá văng ra khỏi nơi đó theo một cách mà y phải nhớ đời – sao chứ, Isak sẽ tặng cho y cả điều đó nữa!
Thế là Isak rời khỏi cánh cửa sổ trong chuồng ngựa, đi trở lại chuồng bò và nhìn ra từ đó, và không thể yên lòng. Cái bọc được buột chặt bằng dây; cái tên khốn khổ đó không có khóa cho túi của y, và sợi dây đã bung ra – Isak không thể chắc rằng anh có mạnh tay quá với cái bọc đó không. Bất kể thế nào – anh không chắc anh đã hành động một cách đúng đắn hay không. Anh đã ở dưới làng trước đó, xem xét cái máy bừa mới của mình, một cái máy bừa mới toanh mà anh đã đặt hàng – ồ, một cỗ máy diệu kỳ, một thần tượng để tôn thờ, và nó chỉ vừa tới đó. Một vật như thế phải mang theo cùng với nó một phúc lành. Và những quyền năng bên trên, những quyền năng dẫn dắt bước chân của con người, ngay lúc này hẳn đang theo dõi để xem anh có xứng đáng với một phúc lành không. Isak suy nghĩ rất lung về những quyền năng bên trên; phải, anh đã từng tận mắt nhìn thấy Thượng đế, một đêm nọ trong mùa gặt, ở trong rừng; đúng hơn, đó là một hình ảnh lạ lùng.
Isak đi ra ngoài sân và khom người xuống cái bọc. Anh vẫn còn đang nghi ngại; anh đẩy cái mũ của mình về phía sau và gãi đầu, việc này mang tới cho anh vẻ ngoài của một kẻ bất chấp tất cả trong giây lát; một cái gì đó kiêu hãnh và bất cẩn, như kiểu cách của một người Tây Ban Nha. Nhưng rồi hẳn anh đã suy nghĩ một điều gì đó như thế này: “Không, mình ở đây, và chẳng có chút gì tuyệt vời hay xuất sắc; chỉ là một kẻ thấp hèn.” Thế rồi anh cột chặt cái bọc lại lần nữa, nhặt cái mũ lên, và mang tất cả trở vào kho thóc. Và chuyện đó đã được thực hiện xong.
Khi anh ra khỏi kho thóc và đang trên đường tới chỗ cối xay, cách xa khỏi cái sân, cách xa khỏi mọi thứ, người ta không nhìn thấy Inger ở chỗ cửa sổ của ngôi nhà. Không, vậy thì cứ để nàng ở nơi mà nàng muốn – chắc chắn nàng đang nằm trên giường – nàng còn ở đâu khác được? Nhưng trong những ngày xưa cũ, trong những năm tháng vô tư đầu tiên đó, Inger không bao giờ nghỉ ngơi, mà ngồi suốt những đêm để chờ đợi anh khi anh đi xuống làng. Giờ đây đã khác hẳn, khác trong mọi cách. Chẳng hạn như khi anh tặng cho nàng cái nhẫn đó. Có thể có một thất bại nào hoàn toàn hơn thế hay không? Isak đã khiêm tốn quá mức, và không dám gọi nó là một chiếc nhẫn vàng.
“Không to tát gì mấy, nhưng cô có thể đeo nó vào ngón tay để thử xem.”
“Nó bằng vàng à?” Nàng hỏi.
“Phải, nhưng chiếc này không dày mấy,” anh nói.
Và tới đây lẽ ra nàng phải trả lời: “Phải, nhưng thật sự nó bằng vàng.” Nhưng thay vì thế nàng đã nói: “Không, nó không dày lắm, nhưng vẫn…”
“Không, nó chẳng có giá trị hơn một chiếc nhẫn cỏ là mấy đâu,” cuối cùng anh nói, và từ bỏ niềm hy vọng.
Nhưng Inger thật sự vui sướng về chiếc nhẫn và đeo nó trên bàn tay phải của nàng, trông rất đẹp khi nàng đang may vá; thỉnh thoảng nàng cho phép những cô gái trong làng đeo thử vào ngón tay của họ một lúc khi họ tới đó để yêu cầu việc này việc nọ. Isak ngốc nghếch – không hiểu rằng nàng tự hào về nó ngoài lời để nói hay sao!…
Chẳng lợi lộc gì khi ngồi đó một mình trong chỗ cối xay, lắng nghe tiếng thác suốt đêm. Isak không làm điều gì sai; anh không có lý do gì để trốn tránh. Anh rời chiếc cối xay, đi qua mấy cánh đồng, và về nhà – bước vào nhà.
Và rồi, đó thực sự là một Isak bẽn lẽn, ngượng nghịu và vui mừng. Brede Olsen ngồi đó, người láng giềng của anh, và không có ai khác; đang ngồi đó uống cà phê. Phải, Inger đã ngồi dậy, hai người bọn họ chỉ đơn giản và lặng lẽ ngồi đó, nói chuyện và uống cà phê.
“Isak đây rồi,” Inger nói một cách vui vẻ, đứng dậy và rót cho anh một cốc cà phê. “Chào anh,” Brede nói, và cũng vui vẻ như thế.
Isak có thể thấy rằng Brede đã trải qua buổi chiều với toán thợ đường dây, đêm cuối trước khi họ lên đường; y là kẻ tệ nhất về chuyện đó, có lẽ, nhưng khá thân thiện và vui tính. Y hơi khoác lác chút chút, theo cách của mình: thật sự không có thời gian để bận tâm tới công việc đường dây này, nông trại đã chiếm hết cả ngày của người ta – nhưng y không thể từ chối khi viên kỹ sư quá nôn nóng muốn có y. Hóa ra Brede đã nhận công việc thanh tra đường dây. Không phải vì tiền, tất nhiên, y có thể kiếm được gấp nhiều nhiều lần số tiền đó ở trong làng, nhưng y không muốn từ chối. Và họ đã cho y một cái máy nhỏ gọn gắn lên tường, một vật nhỏ bé lạ lùng, bản thân nó cũng là một loại máy điện thoại.
Phải, Brede là một anh chàng biếng nhát vô tích sự và khoác lác, nhưng Isak không hề có ác cảm gì với y về tất cả những điều đó; anh vô cùng nhẹ nhõm khi tìm thấy người láng giềng của mình trong nhà chiều hôm đó thay vì một người xa lạ. Isak có đầu óc bình tĩnh, những cảm giác, tính khí kiên định và bướng bỉnh của một nông dân; anh tán gẫu với Brede và gật đầu với những lời nông cạn của y. “Thêm một cốc cho Brede,” anh nói. Và Inger rót cà phê.
Inger nói về viên kỹ sư; một con người tốt bụng không thể tả; đã nhìn những hình vẽ và chữ viết của bọn trẻ, thậm chí còn nói gì đó về việc nhận Eleseus vào làm việc dưới quyền ông ta.
“Làm việc với ông ta à?” Isak nói.
“Phải, ra thị trấn. Làm công việc ghi chép các thứ, một viên thư ký trong văn phòng, tất cả chỉ vì ông ta rất hài lòng với chữ viết và hình vẽ của thằng bé.”
“Thế à!” Isak nói.
“Vâng, thế anh bảo sao? Ông ta cũng sẽ xác nhận lại chuyện này. Đối với tôi đây là một điều tuyệt vời.”
“Phải, đúng là một điều tuyệt vời,” Brede nói. “Và khi ông kỹ sư nói ông ta sẽ làm điều gì, ông ta sẽ thực hiện nó. Tôi biết ông ta, và anh chị có thể tin ở tôi về chuyện đó.”
“Theo tôi biết thì chúng ta sẽ không có Eleseus để dự phòng cho công việc tại nông trại này nữa,” Isak nói.
Sau đó là một không khí im lặng đau đớn. Isak không phải là một người dễ đối thoại.
“Nhưng nếu chính thằng bé muốn nhận lời,” cuối cùng Inger nói, “và cũng thích như thế thì sao?” Lại im lặng.
Thế rồi Brede nói với một tràng cười rộ: “Tôi ước gì ông ta đề nghị một trong những đứa con của tôi. Tôi có đủ con để dự phòng. Nhưng Barbro là đứa lớn nhất, và nó là con gái.”
“Và là một đứa con gái rất ngoan,” Inger nói, vì lịch sự.
“Phải, tôi không chối điều đó,” Brede nói. “Barbro khá ngoan, và thông minh trong chuyện này chuyện nọ. Nó sắp đến giúp việc ở nhà ngài Lensmand.”
“Tới nhà ngài Lensmand?”
“Vâng, tôi phải cho nó đi. Vợ của ông ta cứ khăng khăng về chuyện đó, tôi không thể từ chối.”
Lúc này trời đã sắp sáng, và Brede đứng lên từ giã.
“Tôi có để một cái bọc và một cái mũ trong kho thóc của anh,” y nói. “Nghĩa là nếu những người kia chưa cuỗm nó đi,” y nói thêm với vẻ cợt đùa.