Phúc Lành Của Đất – Growth of the Soil ( Quyển 2- Chương 8)

Knut Hamsun

Hóa ra Axel không có nhiều thời gian để ngơi nghỉ ở nhà. Những cơn gió mạnh mùa thu đã mang tới rắc rối và phiền nhiễu mới cho công việc mà anh đã tự chuốc vào mình: cái máy điện thoại trên tường nhà anh thông báo rằng đường dây đã bị đứt.

Ồ, nhưng anh đã suy nghĩ quá nhiều tới tiền, chắc chắn là thế, khi anh nhận vị trí đó. Ngay từ đầu, nó đã là một mối phiền hà. Brede Olsen đã thẳng thừng đe dọa anh khi anh xuống để lấy cái máy điện thoại và các thứ dụng cụ. Phải, y đã nói nhiều lời:

“Có vẻ như cậu không nhớ tôi đã cứu mạng cậu thế nào hồi mùa đông năm ngoái!”

“Oline mới là người cứu mạng tôi,” Axel đáp.

“Thế hử, thật là! Vậy không phải tôi đã cõng cậu trên đôi vai còm cõi của tôi sao? Dù sao đi nữa, cậu khá thông minh khi mua nhà tôi vào mùa hè và mặc cho tôi vô gia cư vào mùa đông.” Phải, Brede đã bị tổn thương sâu sắc; y nói tiếp:

“Nhưng cậu cứ nhận lấy đường dây cho tôi, tất cả mọi thứ vụn vặt của nó. Tôi và người nhà của tôi sẽ chuyển xuống làng và khởi sự một công việc làm ăn gì đó ở dưới – cậu không biết đó là gì đâu, nhưng cứ chờ xem. Một khách sạn nơi mọi người có thể ngồi uống cà phê thì sao nhỉ? Cậu thấy đó, chúng tôi cũng xoay xở tốt. Ở đó vợ tôi có thể bán những thứ đồ ăn thức uống cũng như các thứ khác, và tôi có thể ra ngoài kinh doanh buôn bán, kiếm được nhiều tiền hơn cậu từng làm ra trước giờ. Nhưng tôi không ngại nói với cậu, Axel, tôi có thể làm cho cậu điêu đứng theo nhiều cách lạ lùng, với tất cả những gì tôi biết về điện thoại và các thứ; phải, cả việc nhổ mấy cái cột lên lẫn cắt đứt đường dây các thứ là những chuyện khá dễ dàng, và rồi cậu sẽ phải chạy ra ngoài để coi sóc nó vào thời điểm bận bịu. Đó là tất cả những gì tôi định nói với cậu, Axel, và cậu gắng mà nhớ lấy…”

Lẽ ra giờ là lúc Axel xuống bến cảng để đưa những cỗ máy về nhà – tất cả đều mạ vàng và rực rỡ màu sắc, trông như những bức tranh. Và anh có thể ngắm nghía chúng suốt ngày hôm đó, tìm hiểu cách sử dụng chúng – nhưng giờ chúng phải nằm chờ ở đó. Chả vui vẻ gì khi phải gác sang bên tất cả những công việc cần thiết để chạy ra coi sóc một đường dây điện tín. Nhưng đó là tiền…

Anh bắt gặp Aronsen ở đỉnh đồi. Phải, tay nhà buôn Aronsen đang đứng nhìn ra trận bão, bản thân gã cũng giống như một ảo ảnh. Gã muốn gì ở đó? Lúc này đầu óc gã không có chút yên bình, nhưng gã phải đích thân đi lên cao nguyên và tận mắt nhìn khu mỏ. Và bạn thấy đó, Aronsen làm chuyện này là xuất phát từ ý nghĩ thật sự nghiêm chỉnh về tương lai của bản thân và gia đình mình. Gã đứng đó, đối mặt với sự quạnh hiu trần trụi trên những ngọn đồi bỏ hoang, những cỗ máy nằm đó chờ han rỉ, những chiếc xe ngựa và mọi thứ vật liệu bị bỏ mặc ngoài trời – thật nản lòng khi trông thấy tình cảnh đó. Đây đó trên những bức vách của mấy túp lều là những tờ áp phích và những thông báo viết tay, ngăn cấm bất kỳ ai phá hỏng hay lấy đi tài sản của công ty – các thứ dụng cụ, những chiếc xe hay các công trình xây dựng.

Axel dừng lại để trao đổi vài lời với tay nhà buôn nổi điên, và hỏi có phải gã ra ngoài săn bắn hay không.

“Bắn à? Phải, giá mà tôi có thể tới gần hắn ta!”

“Hắn ta? Ai vậy?”

“Sao nữa, hắn ta, kẻ đang phá hủy cuộc đời tôi và tất cả những người còn lại quanh đây. Kẻ không chịu bán miếng đất cao nguyên của hắn và cho phép mọi thứ hoạt động trở lại, để việc buôn bán và tiền bạc lại lưu thông hệt như hồi trước.”

“Vậy theo ý của anh ông ta là Geissler, phải không?”

“Phải, tôi muốn nói tới hắn. Nên bị bắn bỏ!”

Axel bật cười và nói: “Cách đây vài hôm Geissler ở thị trấn; lẽ ra anh nên nói chuyện với ông ta ở đó. Nhưng nếu tôi bạo gan dám nói, nói cho cùng, tôi ngờ rằng tốt hơn anh nên để cho ông ta yên thân.”

“Tại sao?” Aronsen giận dữ hỏi.

“Tại sao à? Tôi cho rằng rốt cuộc ông ta khôn ngoan hơn anh và rất bí ẩn.”

Họ cãi nhau một lát về chuyện này, và Aronsen trở nên kích động hơn bao giờ hết. Cuối cùng Axel hỏi đùa: “Dù sao thì anh cũng không làm mặt giận với tất cả chúng tôi và bỏ đi, mặc cho chúng tôi ở lại vùng hoang vu này chứ?”

“Hừ! Nghĩ là tôi sẽ quanh quẩn một cách ngu ngốc ở đây trong cái đầm lầy của các anh và chẳng bao giờ bán được một cái tẩu thuốc à?” Aronsen phẫn nộ la lên. “Tìm cho tôi một người mua và tôi sẽ bán đứt ngay.”

“Bán đứt à?” Axel nói. “Đất này là vùng đất tốt nếu nó được chăm sóc đúng đắn – và những gì anh có đủ để nuôi sống một người.”

“Không phải tôi đã bảo là tôi sẽ không đụng tới nó hay sao?” Aronsen lại la lên trong cơn gió giật. “Tôi có thể làm tốt hơn chuyện đó!”

Axel nghĩ nếu là vậy, tìm một người mua là chuyện dễ dàng; nhưng Arosen cười khinh miệt với ý nghĩ đó – không có ai ở vùng hoang vu này có đủ tiền để mua lại của gã.

“Không phải ở chốn hoang vu này, có lẽ, nhưng ở nơi khác.”

“Ở đây không có gì ngoài rác rưởi và sự nghèo nàn,” Aronsen cay đắng nói.

“Sao, có thể là vậy,” Axel nói, hơi bị xúc phạm. “Nhưng Isak trên trại Sellanraa có thể mua lại của anh bất kỳ ngày nào.”

“Đừng tin vào điều đó,” Aronsen đáp.

“Với tôi đó là điều duy nhất mà anh phải tin,” Axel đáp và quay đi.

Aronsen gọi với theo: “Nè, chờ chút! Anh vừa nói gì – Isak có thể mua chỗ đó, phải anh đã nói thế không?”

“Phải,” Axel đáp, “nếu chỉ là chuyện tiền nong. Ông ta có đủ để mua năm cái trại như Storborg của anh!”

Trên đường lên đây, Aronsen đã đi vòng ra xa khỏi Sellanraa, cẩn thận để không bị nhìn thấy; nhưng khi đi xuống, gã ghé vào và nói chuyện với Isak. Nhưng Isak chỉ lắc đầu và nói không, đó là một vấn đề mà anh chưa bao giờ nghĩ tới, và không quan tâm.

Nhưng lễ Giáng sinh năm ấy, khi Eleseus trở về nhà, Isak tỏ ra dễ chịu. Đúng, anh vẫn khư khư cho rằng mua Storborg là một ý tưởng điên rồ, điều đó chưa bao giờ có trong đầu anh; tuy nhiên, nếu Eleseus nghĩ cậu có thể làm được bất cứ điều gì với mảnh đất đó, sao chứ, họ sẽ xem xét lại.

Bản thân Eleseus vẫn lưỡng lự nửa vời như thường lệ; không chính xác là bồn chồn vì nó; thế nhưng cũng không hoàn toàn thờ ơ. Nếu cậu gầy dựng cơ ngơi ở đó, sự nghiệp của cậu theo hướng khác kể như chấm dứt. Ở đó không giống như trong một thị trấn. Mùa thu ấy, khi nhiều người từ quanh vùng của cậu vào thị trấn để đối chất ở tòa, cậu thận trọng không ló mặt ra; cậu không muốn gặp bất kỳ một ai quen biết trong vùng; họ thuộc về một thế giới khác. Và phải chăng giờ đây bản thân cậu đã quay lại chính cái thế giới đó?

Mẹ cậu rất muốn mua chỗ đó; cả Sivert cũng vậy, bảo rằng đó sẽ là điều tốt nhất. Cả hai người đều đeo dính lấy Eleseus, và một hôm cả ba cùng đánh xe xuống Storborg để tận mắt xem qua chỗ đó.

Nhưng khi có một triển vọng bán được, Aronsen trở thành một con người khác; gã không buộc phải tống khứ nó đi, không hề. Nếu gã ra đi, nơi này có thể đứng vững như trước; nó là một mảnh đất thượng đẳng, một nơi “hái ra tiền” không có khó khăn gì trong việc bán nó vào bất kỳ lúc nào. “Bà sẽ không trả đúng giá của tôi đâu,” gã nói.

Họ đi quanh khắp nhà và cửa tiệm, nhà kho và chuồng gia súc, xem xét những hàng hóa nghèo nàn còn lại, bao gồm vài chiếc khẩu cầm, những sợi dây đồng hồ, những hộp giấy màu thủ công, những cây đèn có treo hình trang trí, tất cả đều không thể bán được cho những thôn dân bén nhạy sinh sống trong vùng. Thêm vài thùng đinh và một số vải hoa, và tất cả chỉ còn có thế.

Eleseus buộc phải khoe mẽ đôi chút, cậu nhìn lướt qua mọi thứ với vẻ hiểu biết và bảo:

“Tôi chẳng dùng những thứ linh tinh đó vào việc gì được.”

“Sao, cậu không buộc phải mua nó,” Aronsen đáp.

“Dù sao, tôi sẽ trả cho ông một ngàn năm trăm Kroner cho chỗ này với những thứ hàng hóa, gia súc và các thứ còn lại,” Eleseus nói. Ồ, cậu quá bất cẩn; đề nghị của cậu chỉ là một trò khoe khoang, để nói lên điều gì đó.

Và họ đánh xe trở về nhà. Không, không có thỏa thuận nào cả; Eleseus đã đưa ra một đề nghị ngớ ngẩn mà Aronsen xem như một sự sỉ nhục. “Tôi không nghĩ nhiều tới cậu, chàng trai trẻ,” Aronsen nói; phải, gọi cậu là chàng trai trẻ, xem cậu chỉ là một thằng lỏi con tự cao tự đại lớn lên trong thị trấn, và nghĩ là có thể lên lớp cậu, cái gã Aronsen chỉ biết tới giá trị hàng hóa đó.

“Tôi sẽ không cho phép ông gọi tôi là ‘chàng trai trẻ’ thưa ông,” Eleseus nói, tới lượt mình bị xúc phạm. Sau chuyện đó, họ ắt phải là những kẻ tử thù.

Nhưng làm sao Aronsen có thể tỏ ra độc lập và chắc chắn về việc không buộc phải bán nhà đến thế? Có một nguyên do: nói cho cùng, gã có một tia hy vọng nhỏ trong đầu.

Một cuộc họp đã được tổ chức trong làng để xem xét tình hình phát sinh do lời từ chối bán lại khu mỏ của Geissler. Chỉ những cư dân bên ngoài mới thoát khỏi chuyện này, nó là chuyện sống chết đối với toàn huyện.

Giờ đây, làm sao thôn dân có thể sống sung túc hay nghèo túng như trước khi có một cái mỏ xuất hiện? Vâng, họ không thể, và tất cả là thế đó. Họ đã trở nên quen với thực phẩm tốt hơn, bánh mì ngon hơn, những quần áo mua tiệm và những khoản lương cao, nói chung là sự tiêu pha phung phí – phải, thôn dân đã học được cách kiếm ra tiền, và đó là vấn đề. Giờ đây, tiền lại đội nón ra đi, chuồn đi như một bầy cá trích ùa ra biển rộng – đó là một tình cảnh khốn cùng kinh khủng đối với tất cả bọn họ, và họ phải làm gì?

Không còn ngờ gì về chuyện đó: viên cựu Lensmand Geissler đã báo thù cả làng vì họ đã giúp thượng cấp của ông sa thải ông; cũng rõ ràng là lúc ấy họ đã đánh giá ông quá thấp. Ông không đơn giản biến mất và bị bỏ rơi. Bằng thứ phương tiện đơn giản nhất, yêu cầu một cái giá cực kỳ phi lý cho khu mỏ, ông đã thành công trong việc kiểm soát toàn bộ sự phát triển của cả huyện. Phải, một con người mạnh mẽ! Axel Ström ở trại Maaneland có thể xác nhận với họ điều này; anh là người duy nhất đã gặp Geissler lúc gần đây. Cô gái Barbro con của Brede bị xét xử trong thị trấn, và đã được tha bổng về nhà; nhưng Geissler đã có mặt suốt ở tòa án. Và nếu có bất kỳ người nào đề xuất rằng Geissler đã chán nản, trở thành một người bị phá sản, sao chứ, anh ta chỉ việc nhìn những cỗ máy đắt tiền mà chính ngài Geissler đó đã gửi lên cho Axel Ström như một món quà.

Vậy thì người đàn ông này chính là kẻ nắm trong tay mình vận mệnh của toàn huyện; họ sẽ phải đi tới một thỏa thuận nào đó với ông. Rốt cuộc Geissler sẽ chịu chấp nhận cái giá nào cho khu mỏ của ông? Trong bất kỳ trường hợp nào, họ phải biết chắc về điều đó. Những người Thụy Điển đã đề nghị ông hai mươi lăm ngàn, ông đã khước từ. Nhưng giả sử cả làng này, cộng đồng ở đây, sẽ đền bù cho phần còn lại, chỉ để mọi thứ diễn ra như trước thì sao? Nếu đó không phải là một khoản tiền cao tới mức trời ơi đất hỡi, cũng đáng để làm điều đó. Cả tay nhà buôn ở trạm bờ biển và Aronsen ở trại Storborg sẽ sẵn lòng đóng góp một cách riêng tư và bí mật: những khoản tài trợ cống hiến cho một mục đích như vậy về lâu dài sẽ được bồi hoàn.

Kết cục của chuyện đó là có hai người được cử tới gặp Geissler và đặt vấn đề với ông. Và mọi người mong cho họ sớm quay về.

Chuyện là như thế, và Aronsen nuôi dưỡng một tia hy vọng, nghĩ rằng anh ta có thể bảo toàn phẩm giá của mình với bất kỳ một ai tới đề nghị mua đứt Storborg. Nhưng niềm hy vọng đó không kéo dài bao lâu.

Một tuần sau, đoàn đại biểu quay về với một lời từ chối thẳng thừng. Ồ, họ đã làm một chuyện tệ nhất ngay từ lúc khởi đầu, khi chọn Brede Olsen là một trong hai đại diện – họ đã chọn y với tư cách là người có thời gian rảnh rỗi nhất. Họ đã tìm được Geissler, nhưng ông chỉ lắc đầu và cười rộ. “Hãy quay về nhà đi,” ông bảo thế. Nhưng Geissler đã trả tiền cho chuyến trở về của họ.

Vậy là cả huyện đã bị bỏ mặc cho vận mệnh của mình?

Sau một thời gian nổi trận lôi đình và ngày càng trở nên tuyệt vọng, một hôm Aronsen lên trại Sellanraa và gút lại vụ mua bán. Phải, Aronsen đã làm điều đó. Eleseus nhận được nó với cái giá cậu đã đề nghị; đất và nhà và chuồng gia súc; gia súc và hàng hóa, cho một ngàn năm trăm Kroner. Thật sự, khi kiểm tra lại mọi thứ sau đó, người ta phát hiện ra rằng cô vợ của Aronsen đã chuyển phần lớn số vải hoa thành sở hữu riêng của chị ta; nhưng những chuyện vặt vãnh như thế không có nghĩa lý gì đối với một thanh niên như Eleseus. Keo kiệt thì chả làm nên trò trống gì, cậu bảo.

Dù sao đi nữa, Eleseus không thật sự vui mừng với mọi chuyện đã diễn ra – tương lai của cậu giờ đã xác định, cậu sẽ vùi mình giữa chốn hoang vu. Cậu phải từ bỏ những kế hoạch lớn lao của mình; cậu không còn là một quý ông trẻ tuổi trong một văn phòng, sẽ không bao giờ trở thành một Lensmand, thậm chí không còn sống trong thị trấn. Với cha mình và những người trong nhà, cậu tỏ ra tự hào vì đã mua được Storborg với chính cái giá mà cậu đã đưa ra – nó cho họ thấy cậu biết mình sẽ làm những điều gì. Nhưng chiến thắng nhỏ nhoi đó không đi xa cho lắm. Cậu cũng hài lòng với việc giữ lại Andresen, tay thư ký, theo thông lệ, được bao gồm trong vụ thương lượng. Aronsen không còn ích lợi gì cho anh ta nữa, cho tới khi anh ta có một nơi mới để đi. Eleseus cảm thấy rất hài lòng khi Andresen lên nài nỉ được cho phép ở lại; ở đây, Eleseus đã là ông chủ và người đứng đầu công việc kinh doanh – lần đầu tiên trong đời cậu.

“Vâng, anh có thể ở lại,” cậu đáp. “Tôi sẽ cần tới một phụ tá để coi sóc nơi này khi tôi đi xa để giao dịch làm ăn – mở ra những giao dịch mới ở Bergen và Trondhjem.”

Và chẳng bao lâu, Andresen đã chứng tỏ việc thu nhận anh ta không phải là một điều sơ suất; anh ta là một người làm việc giỏi, coi sóc mọi thứ rất tốt trong lúc Eleseus đi xa. Chỉ có điều thoạt tiên anh ta có khuynh hướng thích khoe mẽ và thủ vai một quý ông, đó là lỗi của ông chủ cũ Aronsen. Giờ thì mọi chuyện khác rồi. Vào mùa xuân, khi những đầm lầy tan băng, Sivert từ Sellanraa xuống để cùng đào mương thoát nước với anh mình, và coi kìa, chính Andresen cũng ra ngoài để đào mương. Có Trời biết cái gì đã ám vào anh ta khi anh ta làm điều đó, vì đây không phải là việc của anh ta, nhưng anh ta là loại người như thế đấy. Nước chưa ngập đủ sâu, và họ không thể làm được nhiều như ý muốn, nhưng đó cũng là một cái gì đó đã hoàn thành, ở bất cứ giá nào. Chính Isak là người đã có ý tưởng thoát nước những đầm lầy ở Storborg và canh tác mảnh đất ở đó một cách đàng hoàng; cái cửa tiệm chỉ là phần phụ hợ, một sự tiện lợi, để giúp những thôn dân không phải đi suốt cả quãng đường xuống làng chỉ để mua một cuộn chỉ.

Thế là Sivert và Andresen đứng đó đào mương, thỉnh thoảng lại trò chuyện với nhau khi họ dừng lại nghỉ tay. Bằng cách nào đó, Andresen đã kiếm được một đồng tiền vàng hai mươi Kroner, và Sivert sẽ vui vẻ nếu có thể sở hữu cái vật sáng lấp lánh đó; nhưng Andresen sẽ không rời khỏi nó – anh ta gói nó trong một mảnh giấy lụa và nhét vào túi ngực. Sivert đề nghị một trận đấu vật cho số tiền đó – để xem ai có thể vật đổ người kia; nhưng Andresen không muốn đánh liều. Sivert đề nghị đặt cược một tờ hai mươi Croner đáp lại đồng tiền vàng, và sẽ tự thực hiện mọi việc đào mương nếu anh ta thắng; nhưng Andresen xem đó là một sự xúc phạm. “Thế ư, anh ta nói, “và không ngờ gì nữa, cậu muốn trở về nhà và bảo rằng tôi làm lụng trên đất đai không giỏi chút nào!”

Cuối cùng, họ đồng ý đặt cược tờ hai mười lăm Kroner để đổi lấy đồng vàng hai mươi Kroner, và đêm đó Sivert quay về nhà mình ở Sellanraa để hỏi xin cha cậu số tiền đánh cược.

Một trò đùa nghịch của một thanh niên, một trò chơi thú vị của tuổi trẻ! Vất đi một đêm ngon giấc, đi nhiều dặm đất lên và xuống lại, và ngày hôm sau lại làm việc bình thường – chuyện đó chẳng là gì đối với một thanh niên cường tráng như cậu, và một đồng tiền vàng lấp lánh đáng để làm điều đó. Andresen hay trêu chọc cậu về vụ thỏa thuận, nhưng Sivert không chịu lép vế; cậu chỉ cần buông một lời về Leopoldine: “Nè! Suýt nữa tôi quên mất. Leopoldine nó hỏi thăm anh đó…” Và Andresen đột ngột ngưng tay, mặt đỏ bừng lên như gấc chín.

Những ngày vui thú đối với cả hai, thoát nước và đào mương, gây ra những cuộc cãi cọ kéo dài để làm vui, và làm việc, rồi lại cãi nhau. Thỉnh thoảng, Eleseus ra ngoài và giúp một tay, nhưng chẳng bao lâu cậu đã thấm mệt. Eleseus không mạnh khỏe cả về thân thể lẫn ý chí, nhưng là một gã tốt bụng qua mấy chuyện đó…

“Bà Oline đang tới kìa,” Sivert nói. “Giờ anh phải vào nhà và bán cho bà ấy một gói cà phê đi.” Và Eleseus mừng rỡ đi vào. Bán cho Oline một món vặt vãnh này hay khác cũng có nghĩa là nhiều phút nghỉ ngơi, thoát khỏi việc hất những thuổng đất nặng nề.

Và Oline, tạo vật khốn khổ đó, thỉnh thoảng bà có thể cần một nhúm cà phê, do bà tình cờ kiếm được chút tiền từ Axel hoặc dùng pho mát sữa dê để trao đổi. Oline không còn hoàn toàn là bà như trước; công việc ở Maaneland quá nặng nhọc đối với bà; giờ bà đã là một cụ già, và tuổi tác đã để lại những dấu vết của nó. Bà chưa bao giờ chịu thú nhận về sự yếu mệt hay già nua của mình. Thế đó! Bà sẽ tìm ra đủ thứ chuyện để nói nếu bà bị đuổi đi. Cứng rắn và không thể kềm chế, đó là Oline; làm công việc của mình, và tìm ra thời gian để la cà tới những người hàng xóm đó đây cho một cuộc cà riềng cà tỏi ra trò. Đó rõ ràng là quyền lợi của bà, và ở Maaneland không hề có ai để ngồi lê đôi mách. Bản thân Axel không thích vụ đó.

Còn về phần vụ án của Barbro, Oline không hài lòng, phải, Oline rất thất vọng. Cả hai đều được tha bổng! Việc con nhỏ Barbro đó được thả ra trong khi Inger ở Sellanraa gánh chịu tám năm tù không phải là điều dễ chịu chút nào đối với Oline; bà cảm thấy một sự bực dọc trái giáo lý đối với một sự thiên vị như thế. Nhưng Đấng Toàn năng sẽ nhìn thấy mọi sự, không ngờ gì nữa, vào lúc Ngài thảnh thơi! Và Oline gật đầu, như thể tiên đoán được sự trừng phạt thiêng liêng sẽ xảy đến sau này. Đương nhiên, Oline cũng không hề che giấu sự bất mãn của bà với lời tuyên án của tòa, nhất là khi bà thất bại trong một vụ làm tiền vặt vãnh nào đó với Axel, ông chủ của bà. Khi đó bà sẽ ca cẩm, theo lối nói mềm mỏng cũ, với những lời mỉa mai sâu sắc và cay đắng:

“Phải, thật lạ khi luật pháp ngày nay đã thay đổi đến thế nào, đối với mọi xấu xa tội lỗi của Sodom và Gomorrah: nhưng lời của Chúa Trời sẽ dẫn dắt tôi, như từ trước tới giờ, và một nơi ẩn trú tốt lành cho kẻ ngoan ngoãn.”

Chà, hiện giờ Axel muốn phát ốm và thấy mệt mỏi với người quản gia của anh, chỉ mong cho bà biến tới bất cứ chỗ nào khác. Và lúc này, khi mùa xuân đang quay lại, tất cả công việc đồng áng mùa màng đều phải làm một mình; mùa cắt cỏ khô sắp tới, và anh sẽ làm gì? Thật là một viễn cảnh khốn khổ. Vợ của anh trai anh ở Breidablik đã viết thư gửi về nhà chị ta ở Helgeland, cố tìm một phụ nữ đàng hoàng để giúp đỡ anh, nhưng chưa có chuyện gì xảy ra cả. Và trong bất kỳ trường hợp nào, điều đó có nghĩa là anh phải thanh toán cho chuyến hành trình.

Không, Barbor thật là đê tiện xấu xa khi rũ bỏ đứa bé rồi cả chính cô ta cũng bỏ đi. Anh buộc phải giữ lại Oline suốt một mùa hè và hai mùa đông vừa qua, và không thể nói chuyện này có thể kéo dài bao lâu nữa. Còn Barbro, cái sinh vật ấy, cô ta có quan tâm gì hay không? Một hôm trong mùa đông ấy, anh đã nói vài lời với cô ta trong làng, nhưng không hề có tới một giọt nước mắt chảy ra từ mắt của cô ta để đóng băng trên đôi gò má.

“Cô đã làm gì với cặp nhẫn tôi tặng cô?” Anh hỏi.

“Cặp nhẫn?”

“Phải, cặp nhẫn.”

“Hiện giờ tôi không giữ chúng.”

“Thế ư, vậy là hiện giờ cô không giữ chúng?”

“Tất cả những thứ đó là giữa hai chúng ta,” cô ta nói. “Và tôi không thể đeo chúng sau chuyện đó. Đeo những chiếc nhẫn không phải là cách thức khi tất cả đã kết thúc giữa anh và tôi.”

“Được, tôi chỉ muốn biết cô đã làm gì với chúng, thế thôi.”

“Có lẽ muốn tôi trả lại chúng cho anh hả?” Cô ta nói. “Chà, tôi chưa bao giờ nghĩ anh lại đẩy tôi tới việc làm đáng xấu hổ đó.”

Axel suy nghĩ giây lát rồi nói: “Tôi có thể đền bù lại cho cô theo cách khác. Ý tôi là cô sẽ không mất không chúng.”

Nhưng không, Barbro đã tống khứ cặp nhẫn đi rồi, và không bao giờ cho anh có cơ hội mua lại một chiếc nhẫn vàng và một chiếc nhẫn bạc với một cái giá phải chăng.

Dù sao đi nữa, Barbro không hoàn toàn thô kệch khó thương, không hề. Cô có một cái tạp dề dài buộc qua vai và có những nếp gấp ở hai mép, và một dải vải trắng quấn quanh cổ – phải trông cô khá xinh xắn. Có vài người bảo cô đã tìm được một cu cậu ở dưới làng để hẹn hò, dù nói cho cùng có thể đó chỉ là lời đồn đãi. Ở bất cứ giá nào, phu nhân Heyerdahl đã để mắt trông nom cô, và cẩn thận tới mức không cho phép cô tới dự những cuộc khiêu vũ Giáng sinh.

Phải, phu nhân Heyerdahl rất ư cẩn thận; Axel đang đứng đó trò chuyện với người giúp việc cũ của mình về vấn đề hai chiếc nhẫn, đột nhiên phu nhân Heyerdahl đi tới đứng giữa hai người và nói: “Barbro, tôi nghĩ cô đang tới cửa hàng mà?”

Barbro đi. Và bà chủ của cô quay sang Axel và bảo: “Anh có mang theo xuống đây một ít thịt hay thứ gì đó không?”

“Ừm,” Axel đáp, chỉ có thế và chạm tay vào mũ.

Đó là phu nhân Heyerdahl, người đã khen ngợi anh vào mùa thu trước, bảo rằng anh là một anh chàng tuyệt vời và bà luôn nghĩ tốt về anh; và một lời tốt đẹp như thế đáng được đền đáp lại, không còn ngờ gì nữa. Axel biết cách làm mọi việc; đó là một câu chuyện cũ, khi những người đơn giản giao tiếp với những kẻ cao hơn họ, những kẻ có quyền hành. Và khi đó anh đã nghĩ ngay tới một súc thịt, con bò đực non của anh có thể hữu ích trong chuyện đó. Nhưng thời gian trôi qua, hết tháng này sang tháng nọ, và mùa thu cũng đã trôi qua, nhưng con bò chưa bao giờ bị giết thịt. Và nói cho cùng, có hại gì đâu chứ, nếu anh giữ nó lại cho mình? – Mang nó cho đi, và anh sẽ nghèo thêm rất nhiều. Dù sao, đó là một con thú xinh đẹp.

“Ừm, chúc ngày lành. Không,” Axel đáp, lắc đầu; hôm nay anh không mang theo thịt.

Nhưng hình như phu nhân Heyerdahl đoán được ý nghĩ của anh, vì bà nói:

“Tôi nghe nói anh có một con bò, hay thứ gì khác?”

“Phải, tôi có,” Axel đáp.

“Anh sẽ giữ lại nó chứ?”

“Phải, tôi sẽ giữ lại nó.”

“Tôi hiểu. Anh không có con cừu nào để giết thịt sao?”

“Ngay bây giờ thì không có. Cách thức là như thế. Tôi chưa bao giờ mang theo gì ngoài những thứ đang ở ngay tại nhà.”

“Ồ, tôi hiểu,” phu nhân Heyerdahl nói; “Thôi, chỉ có thế.” Và bà tiếp tục đi.

Axel đánh xe về nhà, nhưng anh không thể ngưng suy nghĩ về những chuyện vừa xảy ra; anh hơi e sợ rằng theo cách nào đó anh đã có một bước đi sai lầm. Vị phu nhân đó từng là một nhân chứng quan trọng; đã ủng hộ và chống lại anh, nhưng dù sao thì cũng quan trọng. Anh đã trải qua một thời gian khó chịu trong vụ đó, nhưng, rốt cuộc cuối cùng anh đã thoát ra khỏi nó, khỏi một vụ việc rất tệ hại dính dáng tới thi hài của một em bé được phát hiện chôn trên mảnh đất của anh. Nói cho cùng, có lẽ tốt hơn anh nên giết con cừu đó.

Và thật lạ lùng, vì nguyên do nào đó ý nghĩ này lại gắn liền với Barbro. Nếu anh mang con cừu xuống đó cho bà chủ của cô, gần như chắc chắn rằng việc đó sẽ tạo một ấn tượng nhất định đối với chính Barbro.

Nhưng rồi những ngày lại trôi qua, và không có điều gì xấu ngăn chúng lại. Lần kế tiếp đánh xe chuẩn bị xuống làng, trong xe của anh vẫn không có con cừu nào, không, vẫn không có cừu. Nhưng vào phút cuối cùng, anh mang theo một con cừu non. Tuy nhiên là một con cừu non lớn; không phải là một con cừu bé tẻo teo, và anh giao nó với những lời sau:

“Nó là thứ thịt không ngon mấy vào thời tiết này, và không phải là một thứ quà để mang tới. Nhưng con cừu non này cũng không tệ lắm.”

Nhưng phu nhân Heyerdahl không muốn nghe tới việc nhận nó như một món quà: “Hãy nói anh muốn bao nhiêu,” bà nói. Chà, một quý bà tốt bụng, bà ta không quen với việc nhận quà của những thôn dân! Và kết cục, Axel nhận được một cái giá khá hời cho con cừu non của mình.

Anh không nhìn thấy bóng dáng Barbro đâu cả. Phu nhân của ngài Lensmand đã nhìn thấy anh, và đã bảo cô tránh mặt. Và sự may mắn đã đi theo cô – cái cô nàng Barbro đã chuồn đi không giúp đỡ anh suốt một năm rưỡi qua!

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s

%d bloggers like this: