Phúc Lành Của Đất- Growth of the Soil (Chương 6)

Knut Hamsun

Số thợ còn lại trên khu mỏ kéo xuống. Hoạt động đã ngưng. Vùng cao nguyên lại nằm chết lặng.

Việc xây cất ở Sellanraa giờ cũng đã xong xuôi. Có cả một cái mái cỏ tạm thời để che lên trên vào mùa đông; khoảng không gian rộng rãi bên dưới được chia thành những ngăn sáng sủa, một phòng lớn ở giữa và những phòng rộng ở hai đầu, như thể nó được làm cho người ở. Isak đã từng sống trong một căn lều cỏ ngay tại đây cùng vài ba con dê. Ngày nay người ta không còn trông thấy túp lều cỏ nào ở Sellanraa nữa.

Những ngăn thả ngựa, máng ăn và thùng chứa nước được lắp đặt. Hai người thợ đá vẫn còn bận rộn, tiếp tục hoàn thành toàn bộ công việc càng sớm càng hay, nhưng Gustaf không thạo nghề mộc, gã bảo thế, và gã ra đi. Gustaf là một tay khéo léo trong việc đẽo đá, nâng vác đá như một con gấu; và vào chiều tối, gã là niềm vui thú hân hoan cho tất cả mọi người khi thổi chiếc khẩu cầm, chưa kể đến việc giúp đỡ cánh đàn bà con gái, xách những thùng nước nặng ra sông và trở về. Nhưng giờ thì gã sẽ ra đi. Không, Gustaf không thạo về nghề mộc, gã bảo thế. Trông như thể gã rất vội ra đi.

“Không chờ được tới mai hay sao?” Inger nói.

Không, không chờ được, gã không còn việc gì làm ở đây, ngoài ra, nếu đi ngay bây giờ, gã sẽ có bạn đường băng qua dãy đồi, toán thợ cuối cùng từ khu mỏ.

“Thế bây giờ ai sẽ giúp tôi xách nước?” Inger nói, cười buồn.

Nhưng Gustaf không bao giờ là kẻ chịu thua, gã đã có sẵn câu trả lời: “Hjalmar.” Hjalmar là anh chàng trẻ hơn trong số hai người thợ đá, nhưng không ai trong bọn họ trẻ như Gustaf, không ai giống gã ở bất kỳ khía cạnh nào.

“Hjalmar. Hừ!” Inger nói, tỏ vẻ coi thường. Rồi đột nhiên nàng đổi giọng, và quay sang Gustaf, nghĩ sẽ chọc cho gã nổi cơn ghen. “Nhưng nói cho cùng anh ta rất tốt khi có mặt tại đây, anh chàng Hjalmar đó,” nàng nói, “và anh ta hát thật hay các thứ.”

“Dù sao đừng nghĩ nhiều tới anh ta,” Gustaf nói. Hình như gã không ghen chút xíu nào.

“Nhưng ít ra anh cũng có thể ở lại thêm một đêm nữa chứ?”

Không, Gustaf không thể ở lại thêm một đêm nữa. Gã phải lên đường cùng những người khác.

Vâng, có lẽ lúc này Gustaf đã chán ngán trò chơi. Việc vồ lấy nàng trước mặt đám thợ còn lại và có nàng cho riêng hắn trong vài tuần là một điều thú vị. Nhưng giờ gã phải đi tới nơi khác, rất có thể là về với người tình ở quê nhà. Gã có những thứ khác trong tâm tưởng. Chả lẽ gã cứ tiêu phí thời gian ở lại chỉ vì nàng? Gã có đủ lý do để kết thúc cuộc vui này, như bản thân nàng phải biết; nhưng nàng trở nên liều lĩnh, không quan ngại tới bất kỳ hậu quả nào, dường như nàng không còn quan tâm tới điều gì cả. Không, cuộc vui giữa họ không dài lắm, nhưng cũng đủ dài trong thời gian hắn làm việc ở đó.

Inger rất buồn nản; phải, trung thành một cách sai lầm tới mức than khóc vì gã. Điều này thật khó cho nàng; nàng trung thực trong tình yêu, không hề nghĩ gì tới lòng tự cao hay sự chinh phục; nàng chỉ tuân theo quy luật của bản chất mình; đó là sức nóng của mùa thu trong con người nàng cũng như trong tất cả mọi sự vật khác. Ngực nàng nặng trĩu ưu tư khi nàng gói thức ăn để Gustaf mang theo. Không hề nghĩ nàng có quyền hay không, hoặc nàng có liều lĩnh trong việc này việc khác hay không, nàng dâng hiến hoàn toàn bản thân mình, khát khao nếm trải, hưởng thụ. Isak có thể nhấc bổng nàng tới tận mái nhà và ném nàng xuống sàn lần nữa. Phải, chuyện đó có là gì! Nó sẽ không làm nàng đau đớn chút nào.

Nàng bước ra trao cái gói cho Gustaf.

Nàng đã đặt sẵn cái thùng ở bậc thang là có mục đích, trong trường hợp gã muốn cùng nàng ra sông chỉ một lần này nữa. Có lẽ nàng muốn nói đôi điều, tặng cho gã một món quà nhỏ bé, chiếc nhẫn vàng của nàng. Có Trời Đất biết, nàng đang trong trạng thái sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì. Nhưng một lúc nào đó cũng phải kết thúc mọi chuyện thôi; Gustaf cám ơn nàng, chào tạm biệt, rồi đi.

Còn nàng đứng đó.

“Hjalmar!” nàng gọi to, lớn hơn nhiều so với mức nàng cần. Như thể nàng quyết định dù sao cũng cứ phải vui vẻ, hoặc khóc to lên trong cơn đau khổ.

Gustaf tiếp tục con đường của gã…

***

Suốt mùa thu năm đó vẫn là công việc thường lệ trên những cánh đồng chạy thẳng xuống mé làng; đào khoai tây, gặt lúa mạch, lũ gia súc có sừng được thả rong trên mảnh đất. Hiện giờ ở đó đã có tám nông trại và tất cả đều bận rộn; nhưng ở cửa tiệm, ở trại Storborg không có con gia súc nào, không có mảnh ruộng nào ngoài một khu vườn. Và hiện giờ không có mua bán gì, và chẳng có việc gì bận rộn cho bất kỳ một ai ở đó.

Ở Sellanraa vừa xuống giống một loại cây mới gọi là củ cải đỏ, tạo thành một thảm lá xanh rộng lớn uốn lượn như sóng nhú lên từ mặt đất, và không gì có thể ngăn cản đàn bò tới đó. Lũ gia súc phá tan mọi thứ rào giậu và tràn vào, kêu rống vang lừng. Chỉ còn cách cử Leopoldine và bé Rebecca ra trông chừng những đồng củ cải, và bé Rebecca đi đi lại lại, tay cầm một chiếc gậy to, một thiên tài trong việc xua đuổi đàn bò. Cha nó đang làm việc cạnh đó; thỉnh thoảng anh tới gần để sờ hai bàn tay và bàn chân của nó, hỏi nó có lạnh không. Hiện giờ Leopoldine đã trưởng thành, to lớn; cô có thể đan tất và găng tay mùa đông trong lúc trông chừng lũ gia súc. Cô chào đời ở Trondhjem và tới Sellanraa hồi năm tuổi. Nhưng ký ức về một thị trấn lớn đông người và chuyến đi dài ngày trên con tàu hơi nước giờ đã nhạt nhòa, ngày càng trở nên xa xăm hơn; cô là một đứa con của vùng hoang địa và giờ không còn biết gì về cái thế giới rộng lớn ở bên ngoài ngôi làng mé dưới, nơi cô đã đi lễ nhà thờ một đôi lần, và nơi cô vừa làm lễ thêm sức hồi năm ngoái…

Và công việc bé mọn thường ngày cứ tiếp diễn, thêm vào điều này thứ nọ cần thực hiện; chẳng hạn như con đường xuống làng, có đôi chỗ bị sụt lở. Mặt đất vẫn còn có thể khắc phục, và một hôm Isak cùng Sivert xuống đó, đào rãnh và tháo nước cho con đường. Có hai bãi lầy cần phải tháo nước ra.

Axel Ström đã hứa sẽ cùng làm, biết rằng bản thân anh cũng có ngựa và cần dùng tới con đường, nhưng ngay lúc đó anh đang có việc gấp trong thị trấn. Chỉ Trời mới biết đó là việc gì, nhưng rất khẩn cấp, anh nói vậy. Nhưng anh cũng đã đề nghị anh mình ở trại Breidablik tới làm thay.

Người anh này tên là Fredrik. Một thanh niên vừa cưới vợ, một anh chàng vui tính hay đùa, không tệ về chuyện đó chút nào; Sivert và anh ta có đôi điểm giống nhau. Sáng hôm ấy trên đường lên Fredrik đã ghé qua Storborg, Aronsen chủ trại Storborg là láng giềng gần nhất của anh, và anh thấy chán ứ với những gì tay nhà buôn này đã nói với anh. Nó bắt đầu thế này: Fredrik muốn mua một cuộn thuốc lá. “Tôi sẽ cho anh một cuộn thuốc lá khi tôi có,” Aronsen nói.

“Sao, anh không có thuốc lá ở tiệm à?”

“Không, không đặt hàng. Không có ai mua cả. Cậu nghĩ tôi kiếm được gì từ một cuộn thuốc lá?”

Phải, chắc chắn sáng hôm ấy Aronsen có tâm trạng không vui; cảm thấy bằng cách nào đó gã đã bị lừa bởi cái vụ khai thác mỏ của người Thụy Điển đó. Gã đã dựng một cửa hàng giữa chốn đồng hoang, thế rồi họ bỏ đi và hoàn toàn ngưng hoạt động!

Fredrik cười bẽn lẽn khi nghĩ tới Aronsen, và lúc này lấy gã làm chuyện vui. “Anh ta không chạm tay nhiều lắm vào miếng đất của mình,” anh nói, “thậm chí chưa bao giờ cho gia súc của anh ta ăn, mà phải đi mua. Hỏi tôi có chút cỏ khô nào để bán không. Không, tôi không có cỏ khô để bán. ‘Vậy sao, ý cậu là cậu không muốn kiếm tiền?’ Aronsen nói vậy. Trông có vẻ như nghĩ tiền là tất cả mọi thứ trên đời. Đặt tờ một trăm Kroner lên quầy và nói ‘Tiền đây!’ ‘Chà, tiền thì khá tốt,’ tôi nói. ‘Ngon lành,” anh ta nói. Phải, anh ta hơi xúc động theo cách đó, có thể nói thế, và vợ anh ta đi đi lại lại với một cái đồng hồ đeo tay và dây chuyền các thứ vào những ngày thường. Có Chúa Trời mới biết cô ta có thể nhớ tới cái gì lúc đó.”

Sivert nói: “Aronsen có nói gì về một người tên là Geissler không?”

“Có. Nói gì đó về việc ông ta muốn bán một ít đất ông ta có. Và Aronsen nổi khùng vì chuyện đó, đúng vậy. ‘Cái gã từng là Lensmand rồi trở thành tay trắng,’ anh ta nói, ‘và rất có thể không có tới năm Kroner trong túi, và nên bị bắn bỏ!’ ‘Phải, nhưng cứ chờ xem đã,’ tôi nói, ‘rốt cuộc có thể ông ta sẽ bán được.’ ‘Không,’ Aronsen nói, ‘cậu đừng tin chuyện đó. Tôi là dân buôn bán,’ anh ta nói, ‘và tôi biết, khi một bên kêu giá hai trăm năm mươi ngàn, còn bên kia đề nghị hai mươi lăm ngàn, sự khác biệt là quá lớn; chuyện đó không bao giờ thoả thuận được. Chà, cứ mặc cho họ làm theo cách riêng của họ, và chờ xem mọi chuyện tới đâu,’ anh ta nói. ‘Tôi chỉ ước gì tôi chưa bao giờ đặt chân vào cái lỗ này, một chuyện chết tiệt cho tôi và gia đình tôi.’ Sau đó tôi hỏi anh ta rằng bản thân anh ta có định bán đất không. ‘Có,’ anh ta nói, “tôi đang nghĩ tới chuyện đó. Cái miếng đất đầm lầy này,’ anh ta nói, “một cái lỗ và một bãi sa mạc. Hiện giờ suốt cả ngày tôi chả làm ra được đồng nào,’ anh ta nói.”

Họ phá ra cười về chuyện Aronsen, và không thấy thương hại gã chút nào.

“Nghĩ anh ta sẽ bán chứ?” Isak hỏi.

“Vâng, anh ta đã nói thế. Và anh ta đã đuổi tay giúp việc. Phải, một tay kỳ lạ, một dạng người quái đản, cái anh chàng Aronsen đó, chắc chắn thế. Đuổi người giúp việc có thể làm việc tại đó, kiếm củi đốt mùa đông và chở cỏ khô với con ngựa của anh ta, nhưng giữ lại người thư ký, anh ta gọi hắn như thế. Đúng thật, như anh ta nói, suốt cả ngày không bán được một đồng Kroner, vì anh ta chẳng còn hàng hóa gì. Thế thì anh ta làm gì với tay thư ký đó? Tôi ngờ rằng việc phải có một người đứng cạnh một cái bàn giấy và viết này viết nọ vào sổ chỉ để làm bộ tịch màu mè. Hahaha! Phải, trông có vẻ anh ta hơi xúc động theo cách đó, anh chàng Aronsen này.”

Ba người đàn ông làm cho tới trưa, ăn thức ăn trong giỏ và trò chuyện một lát. Họ có những vấn đề riêng cần nói tới, những vấn đề tốt lành hoặc không hay đối với cư dân vùng đất đó; với họ chúng không phải là những chuyện vặt vãnh mà là những chuyện cần trao đổi một cách thận trọng; họ là những người nhanh nhạy, hệ thần kinh của họ còn nguyên vẹn và không bay bổng tới nơi họ không cần tới. Hiện giờ đã là mùa thu, sự im lặng ngự trị cánh rừng; dãy đồi ở đó, mặt trời ở đó, và vào chiều tối vầng trăng và những vì sao sẽ xuất hiện; tất cả đều bình thường và cụ thể, đầy những tốt lành, một cái ôm thật chặt. Những người đàn ông có thời giờ ngơi nghỉ ở đây, nằm giữa cánh đồng, đầu gối lên tay.

Fredrik nói về Breidablik, về việc anh chỉ mới hoàn thành được chút ít các thứ trong thời gian vừa qua.

“Không,” Isak nói, “không ít đâu, tôi đã nhìn thấy lúc tôi đi xuống lối đó.”

Đây là lời khen ngợi của người lớn tuổi nhất trong số họ, của chính kẻ khổng lồ, và hẳn Fredrik thấy hài lòng. Anh hỏi khá thẳng thắn: “Ông nghĩ thế sao? Vâng, không lâu nữa nó sẽ tốt hơn, năm nay tôi bị nhiều thứ cản trở; phải dựng lại ngôi nhà, nó đang bị dột và muốn tan thành từng mảnh; kho cỏ khô phải dỡ ra rồi dựng lên trở lại, và không còn chỗ trống cho bầy gia súc, vì tôi có nhiều bò và bê hơn Brede hồi anh ta ở đó,” Fredrik nói, tự hào.

“Và anh đang làm ăn thịnh vượng trên đó hả?” Isak hỏi.

“Chà, tôi không nói thế. Vợ tôi, cô ấy cũng làm việc ra trò, sao không chứ? Có căn phòng tốt và nhìn ra khắp hướng; chúng tôi có thể trông thấy cả hai chiều xuôi ngược con đường. Và cạnh nhà có một bãi trồng cây khá đẹp, bạch dương và liễu. Tôi sẽ trồng thêm một ít ở mé kia nhà khi có thời gian. Và thật tốt khi thấy rằng đất lầy đã khô sau lần đào rãnh thoát nước năm ngoái. Vấn đề là năm nay tôi sẽ trồng thứ gì trên đó. Phải, ăn nên làm ra? Khi chúng tôi có nhà cửa, gia đình, đất đai các thứ, chắc chắn là có đủ cho hai người chúng tôi.”

“Vậy hả,” Sivert bẽn lẽn nói, “và hai anh chị, đó có phải là tất cả những gì anh muốn có?”

“Sao, về chuyện đó, có khả năng sẽ còn nhiều người nữa. Còn về việc ăn nên làm ra hả, chà, vợ tôi chưa hề giảm sút đi, với dáng vẻ của cô ấy.”

Họ làm cho tới chiều tối, thỉnh thoảng lại ngưng tay để vươn thẳng lưng và trao đổi vài lời.

“Thế là anh không mua được thuốc lá hả?” Sivert nói.

“Không, đúng thế. Nhưng không sao, vì dù sao tôi cũng không dùng tới nó,” Fredrick nói.

“Không dùng?”

“Không. Chỉ là để ghé vào tiệm của Aronsen và nghe xem anh ta nói gì.” Và cả hai gã thích cợt đùa cùng cười phá lên.

Trên đường về nhà, hai cha con không nói với nhau nhiều, vì cách của họ là thế; nhưng hẳn Isak đang suy nghĩ gì đó; anh nói: “Sivert?”

“Dạ?” Sivert đáp.

“Không, không có gì.”

Họ đi được một chặng xa, và Isak lại bắt đầu:

“Làm thế nào Aronsen tiếp tục buôn bán khi anh ta không có gì để bán?”

“Không,” Sivert nói. “Nhưng hiện giờ ở đây không có đủ người để ông ta lấy hàng.”

“Con nghĩ thế à? Sao, cha cũng cho là thế, phải…”

Sivert ngẫm nghĩ một lát về điều này. Hồi sau cha cậu lại tiếp tục:

“Hiện giờ tất cả chỉ có tám trại, nhưng chẳng bao lâu nữa sẽ có nhiều hơn. Nhiều hơn, chà… cha không biết…”

Sivert thắc mắc hơn bao giờ hết. Cha cậu định nhắm tới điều gì? Hai người đi một lúc lâu trong im lặng; lúc này họ đã gần tới nhà.

“Ừm, Con nghĩ Aronsen sẽ đòi giá cái trại của anh ta ra sao?”

“Ồ, thì ra là chuyện này!” Sivert nói. “Cha muốn mua nó hả?” Cậu hỏi, hơi có vẻ đùa cợt. Nhưng đột nhiên cậu hiểu tất cả những điều này có nghĩa là gì: chính Eleseus là thứ mà cha cậu đang nghĩ tới. Ồ, cha không quên anh ấy chút nào, mà vẫn luôn nghĩ tới anh ấy, giống như mẹ cậu, chỉ là theo cách riêng của ông, gần với đất đai hơn, và gần với Sellanraa hơn.

“Con cho rằng nó sẽ có một mức giá phải chăng,” Sivert nói. Và khi Sivert nói quá nhiều, cha cậu hiểu chàng thanh niên này đã đọc được ý nghĩ của mình. Và như thể e rằng đã nói quá rõ ràng, anh lại xoay qua nói về việc chữa đường; thật tốt khi cuối cùng họ đã làm xong việc đó.

Vài hôm sau, Sivert và mẹ cậu chụm đầu vào nhau thầm thì bàn bạc. Phải, thậm chí họ đã viết một lá thư. Và hôm thứ Bảy đột nhiên Sivert muốn đi xuống làng.

“Con muốn xuống làng làm gì?” Cha cậu hỏi với vẻ không bằng lòng. “Mang ủng cho tới rách…” Ồ, Isak đã gay gắt hơn mức cần thiết; anh biết rõ Sivert sẽ tới trạm bưu điện.

“Con tới nhà thờ.”

Đó là cách bào chữa duy nhất cậu có thể tìm ra, và cha cậu càu nhàu:

“Hừm, để làm gì…?”

Nhưng nếu Sivert tới nhà thờ, cậu có thể thắng ngựa và đưa bé Rebecca đi cùng. Phải, chắc chắn là nên tưởng thưởng cho con bé một lần trong đời, sau khi nó tỏ ra rất giỏi giang trong việc canh củ cải đỏ và luôn là một viên ngọc quý, một phúc lành của cả nhà. Thế là họ thắng ngựa vào xe, và cô hầu gái Jensine đi theo để săn sóc Rebecca trên đường. Sivert không hề phản đối lời nào.

Khi họ trên đường xuống, tình cờ tay thư ký của Aronsen cũng đang đi ngược lên. Điều đó có nghĩa là gì? Không có gì to tát, Adresen, viên thư ký đó, chỉ muốn đi tản bộ chút chút trên đường, chủ anh ta cử anh ta lên. Không có gì hơn. Và những cư dân ở Sellanraa cũng chẳng phấn khích mấy về chuyện đó. Giờ không còn như những ngày xưa nữa, khi một người lạ là một cảnh tượng hiếm hoi trên vùng đất mới của họ và Inger thì luôn nồng nhiệt đón mừng. Không, giờ Inger đã trở nên lặng lẽ khép kín hơn.

Điều lạ lùng nhất là cuốn kinh cầu nguyện, một sự hướng dẫn tinh thần, một cánh tay vòng quanh cổ. Sau khi Inger đã buông lỏng mình đôi chút, đã lạc lối đôi chút khi ra ngoài hái dâu rừng, nàng có thể tìm lại đường trở về nhà nhờ ý nghĩ về căn phòng nhỏ và cuốn kinh Thánh của mình. Phải, giờ đây nàng đã trở nên khiêm tốn và là một linh hồn kính Chúa. Nàng có thể nhớ nhiều năm trước đó, những khi bị kim đâm trong lúc may đồ, nàng thường thốt ra một từ ngữ xấu xa học được từ những người cùng làm việc quanh cái bàn lớn trong học viện nhà giam. Nhưng hiện giờ, khi bị kim châm chảy máu, nàng chỉ lặng lẽ nút máu ra. Một thay đổi trong bản chất con người như thế không phải là một thắng lợi nhỏ nhoi. Và Inger còn làm được nhiều hơn thế. Khi những người thợ đã đi hết, ngôi nhà đá đã hoàn thành và Sellanraa bị bỏ lại trong im lặng, Inger rơi vào một thời điểm khó khăn; nàng khóc lóc và đau đớn rất nhiều. Nàng không trách ai ngoài chính bản thân về tất cả mọi chuyện. Phải chi nàng có thể nói với Isak và tự giúp mình khuây khỏa buồn phiền, nhưng đó không phải là cách của họ. Không một ai trong số họ quen nói ra những cảm giác và thú nhận về mình. Tất cả những gì nàng có thể là rất cẩn thận trong cách mời chồng nàng về dùng bữa, đi thẳng tới chỗ anh và nói một cách ngọt ngào thay vì đứng ở cửa hét lên. Và vào buổi chiều nàng chăm sóc quần áo cho anh, khâu lại nút áo. Phải, thậm chí nàng còn làm nhiều hơn nữa. Một đêm nàng ngóc đầu lên và nói:

“Isak à?”

“Gì vậy?”

“Anh còn thức không?”

“Còn.”

“Không, chẳng có gì,” Inger nói. “Nhưng tôi đã làm tất cả những gì nên làm.”

“Sao?” Isak hỏi. “Phải, rất nhiều,” anh nói, rồi tới lượt mình cũng ngóc đầu lên.

Họ nằm đó và tiếp tục chuyện trò. Nói cho cùng, Inger là một phụ nữ có một không hai; với một quả tim đầy tình cảm. “Tôi đã không cư xử đúng với anh,” nàng nói, “và tôi rất hối tiếc về điều đó.”

Những lời lẽ giản dị này khiến anh xúc động. Phải, anh muốn an ủi nàng, không biết vấn đề là gì, chỉ biết rằng không có ai giống như nàng. “Đừng khóc, bà xã thân yêu của tôi,” Isak nói. “Không ai trong chúng ta có thể sống như chúng ta nên sống.”

“Phải, đúng vậy,” nàng trả lời với vẻ biết ơn. Ồ, Isak có một cung cách tốt đẹp, mạnh mẽ khi cần uốn thẳng lại những thứ bị cong vênh, méo mó. “Không ai trong chúng ta có thể sống như chúng ta nên sống.” Phải, anh nói đúng. Vị thần của con tim. Với tất cả những điều đó anh là một vị thần, anh đã qua nhiều con đường quanh co khúc khuỷu, ra mạo hiểm ở bên ngoài. Anh là một con người hoang dã, và chúng ta có thể thấy điều đó trong dáng vẻ của anh. Hôm nay lăn người trên một luống hoa hồng, liếm môi và nhớ ra điều gì đó; hôm sau bị chân bị dính gai và cố hết sức nhổ nó ra. Chết vì nó? Không bao giờ, anh vẫn khỏe như mọi lúc. Nếu anh chết thì đó sẽ là một cảnh tượng tuyệt vời!

Và nỗi phiền muộn của Inger cũng trôi qua; nàng đã vượt qua nó, nhưng vẫn tiếp tục những giờ cầu nguyện, và tìm được một nơi ẩn náu nhân từ ở đó. Bây giờ mỗi ngày nàng đều làm việc cần mẫn, kiên nhẫn và sống tốt, biết rằng Isak khác với tất cả mọi đàn ông khác, và không muốn ai khác ngoài anh. Không có vẻ trẻ trung vui vẻ sắc sảo của một ca sĩ, đúng, ở vẻ ngoài và cung cách của anh, nhưng rất tốt, phải, thật sự rất tốt! Và một lần nữa người ta thấy rằng lòng kính sợ Chúa Trời và sự mãn nguyện với điều đó là một thứ tài sản kiếm được vô cùng quý báu.

Và Chủ nhật đó, khi viên thư ký nhỏ bé Andresen ở Storborg lên trại Sellanraa, Inger không hề bị ảnh hưởng gì, còn khuya mới thế; nàng không làm gì hơn ngoài việc cho anh ta một cốc sữa, nhưng nhờ Leopoldine cầm vào, vì Jensine đã đi khỏi. Và Leopoldine mang cốc sữa vào, trao cho anh ta và bảo: “Của anh đây.” Rồi cô đỏ mặt. Nhưng hôm ấy cô mặc quần áo ngày Chủ nhật và dù sao cũng không có gì để phải xấu hổ.

“Cám ơn, cô tốt quá,” Andresen nói. “Cha cô có nhà không?”

“À, ông đi quanh đâu đó.”

Andresen uống sữa, lau miệng với một cái khăn tay và xem giờ. “Từ đây lên khu mỏ có xa không?” Anh ta hỏi.

“Không, chỉ khoảng một giờ đi bộ.”

“Tôi sẽ lên đó xem thử giùm ông Aronsen. Tôi là thư ký của ông ta.”

“Vậy à.”

“Cô biết tôi mà, chắc thế; tôi là thư ký của Aronsen. Dạo trước cô từng xuống mua đồ ở tiệm chúng tôi.”

“Phải.”

“Và tôi nhớ cô khá rõ,” Andresen nói. “Cô đã xuống mua đồ hai lần.”

“Anh còn nhớ à, thật khó mà tưởng tượng,” Leopoldine nói và không còn sức lực gì nữa sau đó, chỉ đứng vịn vào một cái ghế.

Nhưng Andresen thì khá bạo dạn, anh ta nói tiếp: “Nhớ cô à? Chà, dĩ nhiên là tôi nhớ.” Và anh ta nói thêm:

“Cô có muốn đi lên khu mỏ với tôi không?”

Và một lát sau đó, đã có gì đó không ổn với đôi mắt của Leopoldine; mọi thứ quanh cô đều hóa thành đỏ rực và lạ lùng, sàn nhà bị trượt đi bên dưới chân, và thư ký Andresen đang nói từ một nơi nào đó rất xa xăm. Nói rằng: “Cô có thể dành chút thời gian không?”

“Không,” cô đáp.

Và chỉ có Trời biết cô làm cách nào để thoát ra khỏi nhà bếp. Mẹ cô nhìn cô và hỏi có chuyện gì. “Không có gì,” Leopoldine đáp.

Dĩ nhiên là không có gì. Nhưng nào, bạn hãy nhìn kia, đã tới lượt Leopoldine bị tác động, để bắt đầu cái chu kỳ vĩnh viễn đó. Cô cũng khỏe khoắn như mẹ, đã trưởng thành, xinh đẹp và vừa mới làm lễ thêm sức; cô sẽ dâng tặng sự hy sinh của mình. Một con chim đang vỗ cánh trong lồng ngực trẻ trung của cô, đôi bàn tay dài của cô giống hệt tay của mẹ cô, đầy vẻ dịu dàng, đầy nét hấp dẫn.

Cô biết nhảy không? Biết chứ, dĩ nhiên. Chuyện cô học được nó từ đâu là một điều kỳ lạ, nhưng chắc là cô học theo cách người ta nhảy ở Sellanraa cũng như ở những nơi khác. Sivert biết nhảy, cả Leopoldine cũng biết; một kiểu nhảy múa riêng biệt của vùng đất đó, sinh ra từ đất mới vỡ hoang; một điệu nhảy đầy sức sống và động tác nhún nhảy, kết hợp cả các điệu schottische, mazurka, valse và polka thành một. Và lẽ nào Leopoldine không được trang điểm, yêu và mơ trong lúc hoàn toàn tỉnh thức? Ồ, như bất kỳ ai khác! Hôm đứng làm lễ trong nhà thờ cô đã được mẹ cô cho mượn chiếc nhẫn vàng để đeo; không hề có tội lỗi gì trong chuyện đó, mà chỉ thêm gọn gàng xinh đẹp; ngày hôm sau, khi tới họp nhóm đạo, cô vẫn đeo chiếc nhẫn cho tới khi nó kết thúc. Phải, cô cũng nên khoe mình chút đỉnh khi làm lễ với một chiếc nhẫn trên ngón tay, vì là con gái của một nhân vật lớn ở vùng đó – ngài Bá tước.

Khi Andresen trở xuống từ khu mỏ, anh ta gặp Isak, và họ mời anh ta vào nhà ăn tối, uống cà phê. Lúc này tất cả những người trong trại đều hợp quần ở đó, tham dự vào cuộc chuyện trò. Andresen giải thích rằng ông chủ của anh ta cử anh ta lên đó để xem mọi chuyện ở khu mỏ ra sao, có dấu hiệu gì sẽ sớm hoạt động lại hay không. Có Trời mới biết, có thể Andrsen đã ngồi đó nói dóc cả buổi trời về việc ông chủ anh ta cử đi; có thể anh ta lên đó vì lý do của riêng mình. Và dù sao, anh ta không thể nào lên tới khu mỏ trong thời gian ngắn rời khỏi Sellanraa.

“Nhìn từ bên ngoài, khó mà biết họ có hoạt động trở lại hay không,” Isak nói.

Không, Andresen thừa nhận là thế; nhưng Aronsen đã cử anh ta đi, và nói cho cùng thì hai cặp mắt có thể nhìn tốt hơn một cặp.

Tới đây hình như Inger không thể kềm chế được nữa, nàng hỏi:

“Những điều họ nói có đúng không, rằng Aronsen sẽ bán lại trại của ông ta?”

Andresen đáp: “Ông ta đang nghĩ tới việc đó. Và một người như ông ta chắc chắn có thể làm theo ý muốn, theo như những gì ông ta có.”

“Vậy à, anh ta giàu thế sao?”

“Phải,” Andresen nói, gật đầu: “Khá giàu, và đó là lời nói thật.”

Một lần nữa Inger không thể giữ im lặng mà phải thẳng ra:

“Tôi tự hỏi, anh ta đòi giá ra sao cho cái trại đó?”

Tới đây Isak xen vào; rất có thể anh còn tò mò muốn biết hơn cả Inger, nhưng phải tỏ vẻ như anh chưa bao giờ nảy ra ý nghĩ mua Storborg; anh biến mình thành người xa lạ đối với nó, và lúc này lên tiếng:

“Sao, cô muốn biết để làm gì vậy, Inger?”

“Tôi chỉ hỏi cho biết,” nàng đáp. Cả hai nhìn Andresen, chờ đợi. Và anh ta đáp rằng cần rất cẩn thận về việc giá cả, anh ta không thể nói gì về chuyện đó, nhưng anh ta biết Aronsen đã mất bao nhiêu để mua cái trại đó.

“Vậy đó là bao nhiêu?” Inger hỏi, không còn sức để tỏ vẻ thản nhiên và im lặng.

“Sáu trăm Kroner,” Andersen đáp.

Inger vỗ tay khi nghe câu đó, vì nếu có một điều mà những quý bà quý cô không bụng dạ nào nghĩ tới, thì đó giá đất đai và tài sản. Nhưng dù sao thì sáu trăm Kroner cũng không phải là một món tiền nhỏ với cư dân ở vùng hoang dã, và Inger chỉ e rằng Isak có thể chê giá mắc. Nhưng Isak vẫn ngồi đó như một ngọn đồi, và chỉ nói: “Phải, anh ta đã cất một ngôi nhà to lớn.”

“Phải,” Andresen lặp lại, “đúng là thế. Chính là vì ngôi nhà lớn xinh đẹp các thứ.”

Vừa khi Andresen chuẩn bị từ giã, Leopoldine lẻn ra khỏi cửa. Đó là một điều lạ lùng, nhưng vì lý do nào đó cô không thể buộc mình nghĩ tới việc bắt tay với anh ta. Do vậy, cô đã tìm một địa điểm tốt, đứng trong cái chuồng bò mới, nhìn ra từ một cửa sổ. Và với một dải ruy băng xanh quanh cổ mà cô chưa bao giờ đeo trước đó, và thật kỳ diệu khi lúc này cô tìm ra thời giờ để đeo nó vào. Anh ta đi ra, một anh chàng hơi béo và lùn, đôi chân lanh lẹ, với một bộ râu quai nón vừa phải, lớn hơn cô chừng chín mười tuổi. Phải, không quá xấu trai đối với cô!

Sau đó là bộ ba đi lễ nhà thờ về muộn vào ngày Chủ nhật. Tất cả đều êm đẹp, bé Rebecca đã ngủ từ vài giờ trước trên đường đi lên, được bế ra khỏi xe và đưa vào nhà trong giấc ngủ say. Siver đã nghe được một ít tin tức, nhưng khi mẹ cậu hỏi, “Nào, con có gì để kể không?” cậu chỉ đáp: “Không, không có gì nhiều. Axel có một cái máy cắt cỏ và một cái bừa.”

“Vậy à?” cha cậu nói, có vẻ rất thích thú. “Con nhìn thấy chúng chưa?”

“Dạ có, con đã nhìn thấy chúng. Dưới bến cảng.”

“Chà! Vậy ra chính vì thứ đó mà cu cậu phải ra thị trấn,” cha cậu nói. Và Sivert ngồi đó, nở từng khúc ruột với niềm tự hào đã biết nhiều hơn, nhưng chẳng nói một lời nào.

Hẳn cha cậu cũng tin rằng vấn đề cấp thiết của Axel ở thị trấn là mua mấy cái máy; cả mẹ cậu cũng nghĩ thế. Chà, nhưng trong thâm tâm, chẳng có ai trong hai người nghĩ thế; họ đã nghe khá đủ lời xầm xì bàn tán về một việc quan trọng hơn; về một vụ giết trẻ sơ sinh ở giữa rừng.

“Đã tới giờ ngủ,” cuối cùng Isak nói.

Sivert rời phòng để đi ngủ; tự hào với kiến thức của mình. Axel đã được triệu tập để điều tra. Đó là một vụ lớn. Ngài Lensmand đã đi cùng anh ta. Lớn đến nỗi cả Lensmand phu nhân, người vừa sinh một đứa bé khác, phải bỏ đứa nhỏ lại và tới thị trấn cùng chồng bà. Bà đã hứa sẽ đích thân nói một lời với bồi thẩm đoàn.

Lúc này những lời bàn tán và tai tiếng đã lan khắp trong làng, và Sivert thấy rõ rằng một tội ác cụ thể nào đó xảy ra trước đó đã được lôi ra xét lại. Ở bên ngoài nhà thờ, có nhiều nhóm người dừng lại chuyện trò khi cậu tới đó, và nếu cậu không phải là Sivert, có lẽ một số người sẽ lánh xa khỏi cậu. Thật tốt khi là Sivert vào những ngày tháng đó, trước hết là một thanh niên xuất thân từ một trang trại lớn, con trai của một phú nông. Và ngoài ra còn được biết như là một chàng trai giỏi dắn thông minh; cậu được xếp hạng trên những người khác, và được kính trọng. Sivert luôn được mọi người yêu mến. Giá mà Jensine không hiểu biết quá nhiều trước khi họ về nhà hôm đó! Và Sivert cũng có nhiều việc riêng cần suy nghĩ. Phải, cư dân giữa vùng hoang dã cũng có thể bị đỏ mặt và tái xanh như bao nhiêu người khác. Cậu đã nhìn thấy Jensine khi cô rời khỏi nhà thờ với Rebecca; cô cũng nhìn thấy cậu, nhưng đi tiếp. Cậu chờ một lát, rồi đánh xe tới nhà ông thợ rèn để đón họ.

Cả gia đình đang ngồi quanh bàn ăn tối. Họ mời Sivert cùng ăn, nhưng cậu cám ơn, bảo đã ăn rồi. Họ đã biết cậu sẽ tới, lẽ ra họ có thể chờ cậu một lúc. Ở Sellanraa người nhà của cậu làm như thế, nhưng hình như ở đây thì không phải vậy.

“Không à, đây không phải là thứ cậu quen ăn, tôi dám nói thế,” vợ ông thợ rèn bảo.

“Có tin gì ở nhà thờ không?” Ông thợ rèn hỏi, dù ông cũng đã có mặt ở nhà thờ.

Khi Jensine và bé Rebecca đã ngồi ngay ngắn trên xe, vợ ông thợ rèn nói với cô con gái của bà: “Nào, tạm biệt, Jensine; ba má rất mong con sớm trở về nhà.” Và câu nói đó có thể hiểu theo hai cách, Sivert nghĩ bụng, nhưng cậu nín thinh. Nếu câu nói trực tiếp hơn, rõ ràng thẳng thắn hơn, có lẽ cậu sẽ… Cậu chờ, với đôi mày cau lại, nhưng không ai nói thêm lời nào nữa.

Họ đánh xe trở về nhà. Bé Rebecca là người duy nhất có chuyện để nói; nó rất thú vị với việc đi lễ nhà thờ, ông linh mục mặc áo lễ với một chiếc thánh giá bằng bạc, những ánh đèn và tiếng đàn organ. Một hồi lâu sau Jensine nói: “Câu chuyện về Barbro các thứ thật là đáng xấu hổ.”

“Mẹ cô có ý nói gì về việc mong cô sớm trở về nhà?” Sivert hỏi.

“Bà ấy có ý gì à?”

“Phải. Cô đang nghĩ tới việc rời khỏi chúng tôi phải không?”

“Sao chứ, tôi cho là họ sẽ muốn tôi có mặt ở nhà vào lúc nào đó,” cô đáp.

“Xùy!” Sivert kêu lên, dừng con ngựa lại. “Có lẽ cô muốn tôi chở cô quay lại?”

Jensine nhìn cậu; trông cậu tái nhợt như người chết.

“Không,” cô nói. Và chỉ giây lát sau cô bắt đầu khóc.

Rebecca kinh ngạc nhìn từ người này sang người kia. Ồ, nhưng bé Rebecca là một bé gái rất tốt để đi cùng trong một cuộc hành trình như thế; nó theo phe của Jensine, vỗ về cô và làm cho cô mỉm cười trở lại. Và khi bé Rebecca nhìn một cách đe dọa anh trai của nó, bảo rằng nó sẽ nhảy xuống và tìm một que củi thật to để đập anh, cả Sivert cũng phải mỉm cười.

“Nhưng anh nói thế là sao, giờ tôi muốn biết?” Jensine nói.

Sivert đáp thẳng thừng ngay tức khắc: “Ý tôi là, nếu cô không màng tới việc ở với chúng tôi thì chúng tôi phải cố xoay xở mà không có cô.”

Và lại mất một hồi lâu nữa, rồi Jensine nói: “Còn có Leopoldine, giờ cô ấy đã lớn, và khỏe mạnh các thứ để làm mọi công việc của tôi, hình như vậy.”

Phải, đó là một chuyến đi buồn bã.

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s

%d bloggers like this: