Tình yêu sau cùng (Chương 5-6)
Pearl Buck
Chương 5
Tôi ngủ không yên giấc, thỉnh thoảng ban đêm tôi lại dậy, đi lang thang trong nhà lưu ý không để Lê Ni biết. Nếu con tôi có nghi ngờ điều gì, thì nó chỉ tưởng rằng tôi buồn rầu vì không nhận được tin tức của cha nó thôi.Nó bảo tôi:- Mẹ ạ, con chắc cả một xấp thư nằm ở một nơi nào đó. Mẹ đã rõ những phu trạm bên ấy. Họ chỉ nghỉ chân theo sở thích của họ, để ăn lưng cơm nóng, rồi lại ngủ trưa dưới gốc cây.Thật ra có phải thế đâu? Những liên lạc bưu chính với Bắc Kinh trước đây vẫn hoàn hảo và tôi đoán rằng hiện nay vẫn khả quan. Bưu chính do người Anh tổ chức nên không dễ có điều gì sơ suất.Tôi mỉm cười nói:- Con nói có lý, thôi mẹ cũng chẳng vì thế mà buồn phiền. không có tin thì rồi có thể có tin hay.Chắc câu ngạn ngữ xưa vẫn đúng, lúc này tôi sẽ cảm thấy dễ chịu hơn, nếu chẳng có bức thư kia nằm hồi hộp trong ngăn kín bàn giấy. Đề phòng một việc không thể xảy ra được, tôi đã gắn si đỏ bức thư đó, nếu chẳng may Lê Ni lục trong đám giấy tờ của mẹ.Tối qua tôi cảm thấy cô đơn lạ lùng. Vắng chồng, nhưng không phải thế là tôi không phải là người vợ. Khi người đàn ông chết tưởng như có một vật gì cũng chết trong cõi lòng goá phụ, và nếu tình yêu thiết tha, người đàn bà không thể yêu thương một người đàn ông khác được nữa! Nhưng tôi không phải là goá phụ. Ban đêm nằm lẻ loi trên đệm, giấc mơ như đưa tôi bay bổng qua các đại dương, tôi qua đường phố quá quen thuộc đến tận cửa cổng nhà tôi. Cửa cổng đóng, nhưng hồn tôi thoát vào được, qua cả sân và cửa lớn khoá. Gã gác cổng không tỉnh giấc. G không thấy tôi đến, và nữa nếu có thấy, đâu gã dám ngăn cản tôi vào. Bởi tôi là chủ nhà. Nhà vẫn ngăn nắp như khi tôi đi; tôi tin đúng là mình đã về nhà cũ. Không thể có điều gì chia rẽ giữa Diên Tôn và tôi cả. tôi tin như vậy.Khi đi tôi đã căn dặn đầy tớ:- Mọi vật phải để nguyên chỗ như ta đã xếp đặt.- Chúng con xin tuân lệnh.- Đừng quên rằng ông nhà phải có bữa ăn nóng sốt buổi chiều dù ông có về muộn.Họ hứa:- Vâng, không bao giờ chúng con dám quên!- Rồi ta sẽ mau trở lại.- Vâng, chắc chắn bà chủ sẽ trở về.Linh hồn tôi lướt qua mau lẹ các căn phòng, đến tận phòng Diên Tôn ngủ. Nhưng chàng ở một mình trong này không? thật ra thì chàng có còn ở một mình nữa không? Linh hồn tôi sợ hãi ngừng ở ngưỡng cửa rồi!Bỗng tỉnh dậy, tôi vội nhảy xuống giường và ra mở ngăn kéo kín. Tôi bóc dấu si phong thư chính tay tôi dán. Tôi đọc lại dòng đầu:Em hãy để cho anh nói rằng anh chỉ yêu có em thôi.Tôi cúi đầu xuống nước mắt ràn rụa. Chàng viết những chữ này đã chẳng đủ sao? Không cần câu trả lời cõi lòng đòi hỏi, tôi đặt bức thư vào ngăn.Tôi không thể tiếp tục nằm được nữa. Ki người đàn bà mất chồng, tình yêu có cùng mất theo không? Nhưng Diên Tôn đâu có chết. Chàng vẫn ở đó ở nhà chúng tôi. Chiều chiều chàng vẫn về, chàng ăn uống ở đấy, buổi mai ngủ rồi dậy. Chàng ngắm vầng trăng, cũng vầng trăng này, nay tôi trông thấy qua cửa sổ nhà mình. Chao ôi, chàng phải biết, chắc chắn chàng phải biết. Chàng biết giờ này qua song cửa, tôi đang ngắm trăng từ từ ló ra trong làn sương của đêm xuân. Ôi! Còn biết bao kỷ niệm!Diên Tôn rất hay cảm động và tình yêu làm chàng e sợ trong buổi đầu chúng tôi quen biết nhau, đến nỗi chàng không dám nói gì. Chàng e ngại làm mếch lòng tôi. Tôi phản đối:- Anh yêu của em sao hôm nay kỳ thế?Tôi âu yếm gọi chàng như vậy, trước khi chàng âu yếm gọi tôi. Khi chàng đặt cho tôi nhiều tên gọi rất yêu đương cũng là bạo dạn lắm rồi và chưa bao giờ chàng dám gọi tôi bằng từ ngữ đó ở chỗ công chúng.Tôi vẫn còn nhớ cặp mắt đen nghiêm nghị của chàng khi nói với tôi:- Anh có thể sống không tình yêu, nhưng anh không thể để mất tình yêu của em một khi đã có. Vì vậy anh không dám cầu hôn.Tôi thiết tha bảo chàng:- Bao giờ em cũng chỉ yêu một mình anh.Chúng tôi nói chuyện như vậy trong đêm có trăng như đêm nay. Năm đó, mùa xuân tới muộn, và chúng tôi đứng dưới tàn cây phong để tránh mẹ tôi nhìn thấy. Tôi cảm thấy lạnh, chàng liền mở áo, tôi vừa đi vừa rúc vào người chàng.Tháng sáu vừa qua họ cấp cho chàng bằng cử nhân ở đại học Harvard. Mẹ tôi cũng dự lễ này. Tôi tràn ngập sung sướng và hãnh diện khi nghe họ lên bảng ưu hạng chàng đoạt. Mẹ tôi chưa bao giờ vồ vập chàng như buổi nay, khi chàng bạo dạn đến phía chúng tôi đứng. Chàng còn mặc chiếc áo thụng dài, đầu đội chiếc mũ vuông của quan toà. Trong những người hiện diện, chàng là người đẹp trai nhất. Lần thứ nhất, chàng không còn rụt rè. Sung sướng và đắc thắng, chàng cầm tay tôi và cả tay mẹ tôi nữa.Chàng nói:- Xin cảm ơn bà và em đã đến dự lễ. Nếu không có bà và em, thì tôi đã lẻ loi.Mẹ tôi nói:- Cầu chúc anh hết lời!Bà nắm chặt tay chàng, tôi nhón gót chân và hôn vào má chàng. Đó là lần đầu tiên tôi hôn chàng trước mặt mẹ tôi. Chàng đỏ mặt nhìn bà, bà mỉm cười không không phản đối gì cả.Buổi tối cả ba chúng tôi dùng bữa tại một tiệm ăn Tàu ở Boston, mà Diên Tôn đã đặt trước. Mẹ tôi cũng chịu ăn những thức ăn lạ lùng này. Còn về phần tôi, món nào cũng vừa ý và ăn thấy ngon cả. Diên Tôn nhìn tôi mỉm cười, mặc dù vốn tính thận trọng, chàng cũng không dấu được niềm vui yêu đương.Ngày hôm sau chàng trở về trại cùng với chúng tôi. Sau bữa ăn tối, chúng tôi ngồi xum họp với nhau. Đêm trong sáng, không khí mát dịu và thơm ngát, như thường thấy ở miền núi. Mẹ tôi mệt và đi nghỉ sớm. Hai chúng tôi ngồi lâu ở ngoài hiên lát đá do cha tôi xây trước một năm người mất. Do đó tôi nhắc đến cha tôi:- Em chỉ muốn cha em biết mặt anh.Diên Tôn hỏi:- Biết mặt anh?Chàng cầm tay tôi trong bàn tay rắn chắc và mát dịu của chàng.- Em chỉ ước ao cha em biết mặt người đàn ông sau này làm chồng em.Thật táo bạo! Nhưng tôi biết là Diên Tôn yêu tôi.Chàng yên lặng một lúc vẫn cầm tay tôi. Rồi chàng đứng dậy ôm ghì lấy tôi và hôn lâu, thật lâu như chưa bao giờ thế.Lại chính tôi phải tự thoát khỏi tay chàng.Tôi nói khẽ:- Bây giờ chúng mình đã đính hôn với nhau rồi đó!Lại ngồi xuống chiếc ghế dài, và chàng kể cho tôi nghe về thành phố Bắc Kinh, về mẹ chàng. Theo chàng, mẹ chàng không đẹp, nhưng bà duyên dáng rất đáng yêu. Bà có hai bàn tay tuyệt đẹp, luôn luôn xức dầu thơm. Chàng vẫn còn nhớ hương thơm nước hoa, khi bà lấy tay vuốt má chàng.Diên Tôn giảng giải:- Người đàn bà Trung Hoa không hôn trẻ con như đàn bà Tây phương. Khi chúng còn nhỏ, họ hôn con bằng đầu mũi và hít mùi thơm tho của đứa bé. Khi anh không còn là trẻ thơ nữa, mẹ anh chỉ vuốt má anh với bàn tay mềm dịu của bà.- Bà là người thế nào? Sao bà lại lấy cha anh?- Anh thấy cha anh như sầu muộn vì tình. Ông định lấy vợ Mỹ thì nàng đã khước từ vì không muốn theo ông sang Trung Hoa hoặc là cha mẹ nàng ngăn cấm. Có lẽ nàng không có can đảm chống lại cha mẹ. ông sang Trung Hoa một mình và sống ở đấy mươi năm. Rồi, em biết người Trung Hoa cư xử thế nào không, nhưng làm sao mà em hiểu được? Họ cho rằng đàn ông, đàn bà đều phải lập gia đình – đó là mệnh lệnh của Trời. Và họ quả quyết rằng một quốc gia chỉ có thể lành mạnh được một khi con dân sống cuộc đời trong sạch. Vì lẽ đó, các bạn bè Trung Hoa khuyên cha anh lấy v. và ông chú Hà Như của anh giới thiệu em gái ông. Lúc này nàng không còn trẻ. Vị hôn phu của nàng mà cha mẹ nàng hứa hôn từ nhỏ đã chết trước một tuần lễ ngày cưới. như vậy, nàng cũng như goá bụa, và nếu nàng không phải là người cứng cỏi, anh tưởng có lẽ nàng không đi bước nữa, như tục lễ cổ truyền. Có lần nàng còn định đi tu nữa đấy!- Thế nàng lại bằng lòng lấy người Mỹ sao?- Chính vì thế mà cha anh mến chuộng. Số đông thiếu nữ Trung Hoa không muốn lấy người ngoại quốc.- Thế nàng có trông thấy mặt ông lần nào không?- Có một bận, khi cha anh đến thăm ông bạn, anh của nàng đang ở phòng ngoài và có trông thấy ông, còn ông không hề để ý.- Cha anh đẹp trai lắm. (Diên Tôn có cho tôi xem chân dung của cha chàng). Thế hai người lấy nhau có hạnh phúc không?Chàng suy nghĩ về câu hỏi này:- Hai người sống trong hạnh phúc cũng có chừng thôi. Sống gần mẹ anh còn khổ sở sao được! Không phải vì tính tình bà luôn luôn vui vẻ nhưng không bao giờ bà tỏ ra buồn rầu và nhất là bà qua chỗ nào là chỗ ấy có thứ tự ngay.- Anh lưu tâm nhiều đến thứ tự sao?Chàng quả quyết:- Không có thứ tự, đời sống mất phẩm giá.Chúng tôi bàn luận chuyện đúng đắn tuy vẫn cầm tay nhau. Khi nghe tiếng chuông đồng hồ treo lớn điểm mười giờ hai giờ đêm, chúng tôi cùng đứng dậy đi vào nhà. Trên bậc cầu thang lớn, chàng hôn tôi lần nữa. Không đằm thắm như lần trước, nhưng với tất cả niềm yêu thương. Rồi chàng vào phòng khách và đóng cửa lại. Tôi về phòng tôi cũng đóng cửa, nỗi hân hoan tràn ngập cõi lòng.
Chương 6
Tôi không thể cứ quanh quẩn với nhiều kỷ niệm quanh lấy mình, như vậy làm sao sống nổi! May mắn sao lúc nhựa phong dâng lên và tôi bắt buộc phải làm việc. Lê Ni phải xin nghỉ học vài ngày, nhìn vào sổ điểm của nó đạt thật tốt. Cả ba chúng tôi, Mạch, Lê Ni và tôi cùng làm việc từ mờ sáng đến xẩm tối đêm đến mệt quá tôi không nằm mơ thấy gì nữa. Tôi muốn cắt tóc ngắn vì nay những cặp tóc không giữ được tóc trước luồng gió lớn, làm mớ tóc dài rơi xoã cả xuống lưng.Vừa vuốt tóc, kết tạm thành búi, tôi vừa nói lớn:- Ồ! Đem cắt ngắn đi cho rảnh!Gió đưa lời nói của tôi đến tai Lê Ni, nó vòng tay làm loa bảo tôi:- Không, con không muốn thế.Lúc ăn trưa, hỏi con tôi tại sao nó không ưa người đàn bà tóc ngắn.- Ta là mẹ con mà!- À! Thì con nói lại là không ưa một người mẹ có tóc ngắn. Thế thôi!Rồi nó cười.Tôi tự hỏi không rõ Diên Tôn khi còn nhỏ có dễ vui cười như thế không? Còn ai nói cho tôi biết được điều này đâu. Viết đến mấy chữ này, tôi bỗng liên tưởng đến thân phụ Diên Tôn. Chắc ông biết. có ngày chúng tôi sẽ định đi thăm ông. Tôi muốn có ông ở đây để ông nói về con trai ông cho tôi nghe.Ông rời Bắc Kinh trước khi quân Nhật đến, chỉ nói vắn tắt rằng không thể chịu đựng được cảnh ấy. Về ở một thôn xóm miền Kansas, ở Listonbeen ông sống trong hoàn cảnh nào? Tôi không biết việc ông viết cho chúng tôi một bức thư, sau khi chúng tôi về Vermont được ít lâu, hỏi thăm tin tức Diên Tôn. Tôi trả lời và sau đó ông cụ không có thư từ gì nữa.Ngày hôm sau tôi hỏi Lê Ni:- Con có muốn ông nội đến ở đây không?Nó trả lời:- Để con nghĩ đã.Con tôi rất thận trọng và dè đặt.Trong khi con tôi suy nghĩ, ngày ngày trôi qua, chúng tôi cũng không có thì giờ nhắc lại câu chuyện cũ. Chích nhựa phong là một công việc vất vả, nhưng chúng tôi còn may mắn có việc để làm.Trước kia, cha tôi chích các cây và trong đồn điền, ông đặt các ống nối liền với ba cái máng chính, nhờ đường dốc, dẫn nhựa xuống một nhà máy nhỏ ở dưới thung lũng. Nhờ sự xếp đặt này, công việc chích nhựa của chúng tôi nhẹ được hai phần so với công việc các nhà láng giềng. Những người trong xóm chỉ trông ngắm, trầm trồ khen ngợi sự khéo léo của cha tôi, nhưng không ai nghĩ đến việc bắt chước làm. Họ vẫn tiếp tục xách những thùng nhựa, như xưa vẫn làm, từ thuở ông cha ngày trước.Trong ngày nắng ấm đó, nhựa chảy tràn trề vào nhà máy lọc.Lúc này tôi ở luôn tại nhà máy – trong khi Lê Ni và Mạch làm các công việc bên ngoài. Về bữa ăn, chúng tôi chỉ hâm nóng hoa quả và rau đóng hộp. Cơm tối xong, chúng tôi lăn ra ngủ. Nhìn hai má Lê Ni hồng đỏ vì gió và tuyết, còn má tôi đỏ vì lò lửa của nhà máy.Nhưng buổi nay, tiết đông trở lại, nhựa đóng đông và các đường đi đều đã bị tuyết làm nghẽn. Lê Ni và tôi nghỉ ngơi. Mạch cũng xuống nhà máy lọc chờ đợi. Ăn bữa trưa, chúng tôi có thể chần chờ được và Lê Ni có thì giờ đọc sách. Tôi hỏi lúc nó đáng đọc.- Lê Ni, con đã nghĩ về vấn đề mẹ hỏi hôm nọ chưa? Về việc ông nội đó?Ngồi duỗi chân trên chiếc ghế dài, gần cửa sổ, quyển sách ấp ngực, nó ngẩng mặt nhìn tôi:- Vâng, con đã nghĩ kỹ. Con muốn ông đến đây ở với chúng ta.Rồi nó lại đọc sách tiếp.Rõ ràng giống hệt hình bóng của cha nó! Nó yên lặng suy nghĩ rồi quyết định, và như vậy là giải quyết xong công việc. Rửa bát đĩa xong, tôi lên lầu lựa một căn phòng để đón ông cụ. Ngôi nhà quá lớn đối với chúng tôi. Có thể cả tá trẻ con ở được. Nhà làm bằng gỗ, dựng trên một nền đá, giãi ra hướng nam và trông xuống thung lũng. Mùa hạ đến, thị dân ở New York hay Chicago qua chơi, lại dỗ dành tôi bán ngôi nhà này cho họ. Họ trả món tiền kếch sù, có thể với cái gia tài đó, tôi chẳng phải lo nghĩ điều gì. Nhưng tôi vẫn từ chối.Tôi chọn một căn phòng ở góc, hướng đông nam. Lê Ni có căn phòng quay về hướng tây nam, vì trong mấy tháng nghỉ hè, nó muốn được ngủ trưa, khỏi bị ánh nắng buổi mai quấy rầy. nhưng ông già ít khi dậy muộn thì phải. Gian phòng hình vuông, có bốn cửa sổ lùa đầy ánh sáng, một lò sưởi ngăn hai cửa sổ nhìn ra hướng đông. Sát vào khung cửa sổ có kê ghế, sàn nhà bằng gỗ thông, giấy dán ở tường màu hồng đã phai nhạt. Về già, mẹ tôi đã chọn phòng này và đồ đạc của bà kiểu Victoria vẫn còn, cả rèm cửa màu trắng do bà khâu vá tự chăng lên. Chiếc giường có hơi lớn và với thành trên bằng gỗ trạm trổ. Căn phòng rất thích hợp cho một ông già.Chúng tôi chỉ có thể lên đường được sau khi lọc đường xong. Một cơn bão tuyết nhỏ lại đến làm cho tôi phải ngừng công việc. Trong tháng ba, khi mùa chích nhựa đang thuận lợi thì một trận mưa ấm áp lại đổ từ bầu trời thấp và xám xuống. chúng tôi chỉ sợ nhựa cây ngừng chảy và cây cối bị tiết xuân giả lừa dối. Nhưng bỗng một luồng gió buốt lạnh thổi từ Canada xuống, hạt mưa đông đọng ngay trên cây. Nhựa cây được cứu vãn, nó than ôi! Những cây lớn lại bị luồng gió mạnh tàn phá. Một đêm không ngủ được, tôi nghe thấy cành cây gãy đổ, tiếng nghe ròn và khiếp sợ như tiếng súng. Sáng hôm sau, mặt trời lại chói loà, tôi cùng với Lê Ni ước lượng sự thiệt hại trong đồn điền. Từng mảng nhựa đông đặc lủng lẳng trên các cành cây gãy, dưới ánh mặt trời, nó tan vỡ, giải trên mặt đất, mùi thơm dịu. tôi vốn sợ bùn nhơ và đây đầy một thứ như vậy. Lê Ni nhắc nhở với tôi là cây cối cũng khôn ngoan và chẳng bao giờ chúng cho ta biết đường của chúng. Tôi bảo nó:- Thì ít nhất, chúng ta cũng được hưởng một phong cảnh tuyệt đẹp.Rồi chúng tôi đi ngắm phong cảnh chói chang từ trên đỉnh núi chót vót phía sau nhà chúng tôi.Sau sáu tuần lễ công việc vất vả, thu được bốn trăm lít mật phong trong sáng như hổ phách sau chúng tôi đem nấu chỉ giữ lại đường. Tháng tư đến khi mầm non trồi lên là kết thúc mùa chích nhựa. Tôi báo tin cho Mạch biết vào mùa xuân này chỉ có một mình ông sẽ làm công việc cày bừa mà thôi. Vì Lê Ni và tôi phải đi Kansas. Tôi hẹn sẽ trở về trước mùa gieo hạt.Chúng tôi khởi hành. Trong khi đồng bằng và núi non lướt qua kính cửa toa tàu, tôi gợi chuyện với Lê Ni về ông nội nó, nhưng chính những kỷ niệm xa xưa cũng đã mờ dần. Tôi trông thấy tất cả mọi người qua bức màn sương thanh khiết tình yêu của tôi đối với Diên Tôn vì tôi là một trong những người đàn bà sung sướng được đẹp duyên ngay với mối tình đầu.John Burroughs nói:…Nhựa chảy lần thứ nhất giống như mối tình đầu, nhựa đó quý, phong phú, ngọt dịu nhất, hương vị thơm ngát và trong sạch, những dòng nhựa tiếp theo sau không sao so sánh được.Tôi bảo Lê Ni:- Ông nội con cao lớn mảnh khảnh, rất sang trọng. Ông quê ở Virginia, tổ tiên dòng giống Escot, đến lập nghiệp từ lâu. Mẹ tự hỏi không rõ sao ông lại lấy một bà vợ Tàu.Lê Ni như bỗng muốn lùi lại. Nó không muốn nói tới bà nội người Trung Hoa. Tôi thấy như những thành kiến của bè bạn trong lớp đã bắt đầu làm nó lây bệnh này. Như vậy, sự hiện diện của thân phụ Diên Tôn đối với tôi thật quý giá.Tôi nói tiếp:- Ông con có mớ tóc và cặp mắt đen như cha con. Nhưng nay chắc tóc đã bạc. Con có nhớ gì về ông con không?Nó trả lời tôi, vẻ bướng bỉnh:- Con không nhớ gì!Chỉ cần nhắc lại đời sống ở Bắc Kinh là nó không còn nhớ gì nữa. Bởi nó muốn là người Mỹ.Phong cảnh lướt đi thật nhanh. Một ngày kia thư thả, tôi sẽ đi thăm lại các vùng mình lướt đi như gió này. Tôi thích ngừng chân lại từng làng, từng thành phố, men theo đường tắt miền quê mà chúng tôi chỉ thoáng nhìn thấy. Đêm qua vén màn cửa, nằm trên giường ngủ trong toa, tôi ngắm cảnh trăng bên ngoài. Tôi không biết mình ở nơi nào. Xứ sở rộng quá, ngay chính tôi cũng cảm thấy mình như người xa lạ. Huống hồ Diên Tôn, nếu ở đây chàng có khác gì kẻ tha hương.Đêm đầu trong khách sạn ở Thượng Hải, tôi như đang tựa đầu vào ngực chàng thổn thức:- Tại sao anh không cùng đi với em? Ở đây anh có gì ưa thích hơn em đâu nhỉ?- Đúng chẳng có gì và cũng chẳng có ai. Eve của anh, nếu nay anh rời đất Trung Hoa, đó là đi vĩnh viễn. Và anh cảm thấy thật xa lạ khi sống trên đất Mỹ.- Nhưng có em ở đó mà!Chàng nghiêm nghị trả lời:- Như thế cũng không thay đổi gì!Giữa đêm khuya, trong miền rộng bao la này vượt đi vội vã, chính tôi cũng cảm thấy mình xa lạ và lời nói của Diên Tôn thật đầy ý nghĩa.