Phúc Lành Của Đất- Growth of the Soil (Quyển 2 – Chương 1)
Knut Hamsun
Sellanraa không còn là một mảnh đất hiu quạnh giữa chốn hoang vu; có nhiều người sống ở đây, lớn nhỏ bảy người tất cả. Và trong thời gian ngắn giữa mùa cắt cỏ khô thỉnh thoảng lại có một người, quen hoặc lạ, tới để xem chiếc máy cắt cỏ. Brede Olsen là người đầu tiên, dĩ nhiên, nhưng cả Axel Ström cũng tới, và nhiều láng giềng khác ở mé dưới. Phải, ngay cả từ dưới làng. Và từ bên kia đồi, Oline, con người bất khả tiêu diệt, cũng tới.
Lần này bà cũng mang theo những tin tức từ làng xóm của mình; tới mà không có những câu chuyện tầm phào không phải là cách thức của Oline. Những giao dịch và các khoản thu chi của cụ Sivert đã được xem xét, và gia tài ông để lại không còn gì cả. Chẳng có gì!
Nói tới đây Oline mím môi lại và nhìn từ người này sang người khác. Chà, đó có phải là một tiếng thở dài không? Mái nhà sẽ đổ sụp xuống chứ? Eleseus là người đầu tiên mỉm cười.
“Chúng ta hãy xem nào. Em được đặt tên theo cậu Sivert, phải không?” cậu nhẹ nhàng hỏi.
Và Sivert trẻ cũng nhẹ nhàng đáp lại:
“Đúng thế. Nhưng em đã tặng cho anh tất cả những gì mà ông ấy có thể để lại cho em.”
“Và nó khoảng chừng bao nhiêu?”
“Giữa năm và mười ngàn.”
“Daler?” Eleseus đột ngột la lên, nhại lại em cậu.
Oline, không ngờ gì nữa, nghĩ đây là một câu đùa không đúng lúc. Ôi dào, bản thân bà cũng đã bị phỉnh phờ; vì tất cả những chuyện đó bà đã cố vắt ra vài giọt nước mắt thật thà trước nấm mộ của cụ Sivert. Eleseus phải biết rõ nhất vì chính nó đã viết ra: phần của Oline là bao nhiêu, để an ủi và hỗ trợ cho những năm tháng cuối đời của bà. Và khoản hỗ trợ đó đâu rồi? Ôi dào, chẳng nhờ cậy được chút gì!
Oline tội nghiệp; họ nên để lại cho bà thứ gì đó. Một tia sáng huy hoàng duy nhất trong cuộc đời bà! Oline chưa hề hấn gì, đã được ban phúc với những phẩm vật của cõi trần này. Đã làm điều xấu, phải, đã len lỏi trong đời bằng những trò xỏ lá và đê tiện nho nhỏ từ ngày này sang ngày khác; khỏe tung tin đồn nhảm không thua kém một người có miệng lưỡi đáng sợ; phải, là thế. Nhưng không gì có thể khiến bà tệ hại hơn trước; nhất là một khoản tiền còm để lại từ người chết.
Bà đã lao động nhọc nhằn suốt đời mình, đã sinh con đẻ cái và dạy chúng vài nghệ thuật của chính bà; xin ăn vì chúng, có thể trộm cắp vì chúng, nhưng bằng cách nào đó luôn lo liệu được cho chúng. Một bà mẹ nghèo. Những sức mạnh của bà không kém gì của các chính trị gia khác; bà hành động vì bản thân và vì những người thuộc về bà, tung ra lời diễn thuyết tùy theo tình huống, và đạt được mục đích của mình, mỗi lần như vậy lại kiếm được một mẩu pho mát hay một nắm len; bà cũng có thể sống và chết trong sự giả dối tầm thường và trí khôn nhanh nhẹn. Có thể trong một khoảnh khắc nào đó cụ Sivert đã nghĩ về bà như một nàng thiếu nữ má hồng xinh đẹp trẻ trung; nhưng giờ bà đã già nua, nhăn nheo teo tóp, một bức tranh về sự suy tàn; bà cũng nên chết cho rồi. Bà sẽ được chôn ở đâu? Bà không có hầm mộ gia đình; không, bà sẽ bị hạ xuống một nấm huyệt nào đó, nằm giữa những nắm xương xa lạ; phải, cuối cùng rồi bà cũng sẽ đi tới đó. Oline, đã sinh ra và chết đi. Bà từng có một thời tuổi trẻ. Giờ trong bà có còn lại chút gì của nó, ở giờ thứ mười một? Phải, một tia sáng huy hoàng độc nhất, và đôi bàn tay của người phụ nữ–nô lệ này sẽ chắp lại trong khoảnh khắc. Công lý sẽ mang tới cho bà sự tưởng thưởng muộn màng; bởi bà đã xin ăn vì lũ con, có thể trộm cắp vì chúng, nhưng bằng cách nào đó luôn lo liệu được cho chúng. Một khoảnh khắc. Và bóng tối có thể ngự trị trong bà như trước; mắt bà sáng rực lên, những ngón tay của bà ngọ nguậy một cách tham lam. Bao nhiêu? Bà hỏi. Sao, không hơn à? Bà hỏi. Bà sẽ lại ổn thôi. Một bà mẹ nhiều con cái, đang nhận chân lại cuộc đời. Điều đó xứng đáng với một tưởng thưởng lớn lao.
Nhưng tất cả đã đi theo cách khác. Ít nhiều gì, những khoản thu chi của cụ Sivert cũng đã có trật tự hơn sau khi Eleseus kiểm tra lại chúng; nhưng nông trại, con bò, trại cá, những tấm lưới, hầu như không đủ để bù đắp cho khoản tiền thiếu hụt. Và với Oline, trong một chừng mực nào đó mọi thứ đã hóa ra sáng sủa hơn; bà thiết tha với việc cố gắng bảo toàn một khoản để lại nhỏ cho mình đến nỗi đã vờ như quên đi những thứ mà bà, một người chuyên tung tin nhảm và ngồi lê đôi mách, vẫn còn nhớ rõ, hoặc những vấn đề nổi bật mà những người khác hẳn sẽ cố tình làm ngơ để tránh gây khó chịu cho những công dân khả kính. Ôi chao, Oline! Thậm chí ngay hiện giờ bà cũng không nói một lời nào chống lại cụ Sivert; ông cụ đã lập di chúc từ tấm lòng tử tế, và lẽ ra sẽ để lại khá nhiều, nhưng hai người do Ủy ban cử tới để sắp xếp mọi thứ đã chơi khăm bà. Nhưng một ngày nào đó tất cả sẽ tới tai của Đấng Toàn năng, Oline nói với vẻ đe dọa.
Thật lạ lùng, bà không thấy có gì nực cười với thực tế rằng bà đã được nhắc đến trong tờ di chúc; nói cho cùng, đó là một niềm vinh hạnh; không có ai thuộc loại người như bà được ghi tên trong đó!
Những người ở trại Sellanraa đón nhận tin này với lòng nhẫn nại; không phải họ hoàn toàn không chuẩn bị tinh thần. Đúng, Inger không thể hiểu nổi. Ông cậu Sivert đã luôn luôn là một người giàu có…
“Ông ấy có thể đứng thẳng như một con người chính trực và giàu sang trước Chúa Trời,” Oline nói, “nếu họ không ăn cướp của ông ấy.”
Isak đang đứng đó và chuẩn bị ra đồng, và Oline nói: “Thật tiếc là anh phải đi bây giờ, Isak; vậy tôi sẽ không nhìn thấy chiếc máy mới. Họ bảo là anh có một cái máy mới phải không?”
“Phải.”
“Phải, có những câu chuyện về nó, rằng nó cắt nhanh hơn một trăm cái hái. Và còn thứ gì mà anh không có, hả Isak, với tất cả những công cụ và sự giàu có của anh! Vị linh mục ở chỗ tôi ông ấy có một chiếc cày với hai tay cầm; nhưng so với anh thì ông ấy chẳng là gì, và tôi sẽ nói thẳng vào mặt ông ta như thế.”
“Sivert sẽ chỉ cho dì thấy cái máy; nó sử dụng cái máy đó giỏi hơn cha nó,” Isak nói và đi ra.
Có một cuộc bán đấu giá tổ chức ở Breidablik vào trưa hôm ấy, và anh sẽ đi tới đó; giờ cũng vừa đúng lúc phải tới đó rồi. Không phải Isak còn nghĩ tới chuyện mua cái trại đó, nhưng đó là cuộc bán đấu giá đầu tiên tổ chức ở chốn hoang vu, và không tới đó thì thật lạ.
Anh đi tới trại Maaneland và trông thấy Barbro, và chỉ định đi ngang qua với một lời chào, nhưng Barbro gọi anh và hỏi có phải anh đang đi xuống không. “Phải,” Isak đáp, dợm chân đi tiếp. Chính nhà cô bị bán đi, và đó là lý do vì sao anh trả lời vắn tắt.
“Chú đi tới chỗ bán đấu giá hả?” Cô hỏi.
“Tới chỗ bán? À, tôi chỉ đi xuống một chút. Cô đã làm gì với Axel?”
“Axel? Không, cháu không biết. Anh ta đi xuống chỗ bán đấu giá. Chắc chắn anh ta sẽ có cơ may mua được một thứ gì đó với giá gần như cho không, như số còn lại.”
Lúc này trông Barbro có vẻ nặng nề. Phải, và miệng lưỡi thì sắc sảo, chanh chua!
Cuộc đấu giá đã bắt đầu; Isak nghe tiếng ngài Lensmand gọi to, và nhìn thấy một đám đông người. Khi tới gần hơn, anh không biết hết tất cả bọn họ; có một số đến từ những làng khác, Brede đang lục tung những thứ đồ lộng lẫy nhất của mình và trò chuyện theo cung cách cũ của y.
“Xin chào Isak. Thật là vinh hạnh cho tôi khi anh tới xem cuộc đấu giá này. Cám ơn, cám ơn. Phải, chúng ta đã là lối xóm bạn bè suốt mấy năm nay, và giữa chúng ta chưa bao giờ có một lời không phải.” Brede tỏ ra cảm động. “Phải, thật lạ khi rời bỏ một nơi anh đã sống, đã làm lụng nhọc nhằn và trở nên yêu mến nó. Nhưng người ta còn làm gì được khi vận mệnh đã định thế rồi?”
“Có thể sau này anh sẽ ổn hơn,” Isak an ủi.
“Sao,” Brede nói, vớ lấy câu nói đó, “nói thật tình, tôi nghĩ sẽ là như vậy. Tôi không tiếc nó, không một chút nào. Tôi không nói là tôi đã tạo được ở đây một cơ đồ, mà đó có thể là điều sẽ tới; bọn trẻ sẽ lớn lên và rời khỏi tổ; phải, đúng là vợ tôi đang có mang một đứa khác; nhưng với tất cả những chuyện đó…” Đột nhiên Brede nói thẳng tin tức của y: “Tôi sẽ thôi công việc đường dây.”
“Sao?” Isak hỏi.
“Tôi sẽ từ bỏ cái tuyến điện thoại này.”
“Từ bỏ đường dây điện thoại?”
“Phải, từ năm mới trở đi. Dù sao thì nó cũng có gì tốt đẹp đâu? Và giả sử tôi phải đi ra ngoài làm việc, đánh xe cho ngài Lensmand hay ông bác sĩ, rồi trên hết lại phải coi sóc đường dây, không, không có nghĩa lý gì trong cách làm đó. Khá ổn khi có thời gian rỗi, nhưng chạy khắp lũng khắp đồi theo một đường dây điện thoại với khoảng lương gần như không có gì, đó không phải là công việc dành cho Brede này. Ngoài ra, tôi đã cự cãi với những người ở văn phòng về nó. Họ đang làm om xòm vụ đó.”
Vị Lensmand lặp lại các mức giá cho nông trại. Nó lên tới vài trăm Kroner. Cái trang trại được đánh giá cỡ đó, và lúc này giá nhích lên rất chậm, chỉ từ năm tới mười Kroner mỗi lượt.
“Sao, chắc chắn là cái cậu Axel đó đang trả giá,” Brede đột nhiên kêu lên, và vội vã xen vào. “Sao, cậu sẽ mua cả cái trại của tôi nữa hả? Cậu chưa có đủ để coi sóc hay sao?”
“Tôi mua cho một người khác,” Axel đáp một cách lãng tránh.
“Tốt, tốt, cũng chẳng tổn hại gì tới tôi, ý tôi không phải chuyện đó.”
Vị Lensmand giơ chiếc búa lên, một người khác lại đưa ra giá, ngay lập tức nâng thêm một trăm Kroner; không có ai trả giá cao hơn, vị Lensmand lặp đi lặp lại con số, chờ một lát trong lúc giơ cao cây búa, rồi gõ xuống.
Ai đã đấu giá?
Axel Ström – đại diện cho một người khác.
Vị Lensmand ghi chú: Axel với tư cách người đại diện.
“Cậu mua cho ai vậy?” Brede hỏi. “Tất nhiên, đó không phải là việc của tôi, nhưng…”
Nhưng lúc này một số người trên bàn của vị Lensmand đang chụm đầu vào nhau bàn bạc; có một đại diện từ ngân hàng, ông chủ tiệm đã cử trợ lý của mình tới; có vấn đề gì đó; những người chủ nợ không hài lòng. Brede được gọi lên, và Brede, bất cẩn và vô tư lự, chỉ gật đầu đồng ý. “Nhưng ai mà nghĩ nó không thể lên nhiều hơn thế cơ chứ?” Y nói. Đột nhiên y cao giọng tuyên bố với tất cả những người có mặt:
“Dù sao mấy người cũng thấy chúng tôi đang tổ chức một cuộc đấu giá, và tôi đã làm phiền ngài Lensmand trong công việc này, tôi sẵn sàng bán những thứ tôi có ở đây: chiếc xe, gia súc, một cái chĩa ba, một hòn đá mài. Giờ tôi không cần tới mấy thứ đó nữa; chúng tôi sẽ bán miếng đất này.”
Lúc này chỉ có những cuộc trả giá nho nhỏ. Vợ của Brede, vô tư lự và bất cẩn hệt như y, với mọi viễn cảnh no đủ trước mặt, đã bắt đầu bán cà phê ở một cái bàn. Chị ta thấy việc buôn bán thật là vui vẻ và mỉm cười; khi Brede tới để kiếm một cốc cà phê, chị ta nói đùa với y rằng y phải trả tiền như tất cả những người khác. Và Brede cũng rút cái ví mỏng dính của mình ra thanh toán tiền. “Có một cô vợ cho các anh đây,” y nói với mấy người khác. “Sao, có khát không?”
Chiếc xe không đáng giá mấy. Nó đã ở quá lâu ngoài trời không có gì che đậy; nhưng cuối cùng Axel trả thêm năm Kroner và mua được chiếc xe. Sau đó Axel không mua thêm gì khác, nhưng tất cả mọi người đều ngạc nhiên khi thấy cái anh chàng kỹ tính đó lại mua nhiều thứ đến thế.
Rồi tới bầy gia súc. Hôm nay chúng bị nhốt trong chuồng, để sẵn sàng đưa ra đó. Brede cần gì gia súc khi y không có nông trại để nuôi giữ chúng? Y không có bò; y đã khởi đầu công việc trang trại với hai con dê, và giờ có bốn con. Ngoài ra, còn có sáu con cừu. Không có ngựa.
Isak mua một con cừu có đôi tai bẹp. Khi mấy đứa con của Brede dắt nó ra khỏi chuồng, anh bắt đầu trả giá ngay, và mọi người nhìn anh. Isak ở Sellanraa là một phú ông, ở một vị trí tốt, không cần phải có thêm cừu nữa. Vợ của Brede ngưng bán cà phê một lúc và bảo: “Phải, anh có thể mua nó, Isak ạ; nó đã già, thật vậy, nhưng nó đẻ hai hoặc ba con mỗi năm, và đó là sự thật.”
“Tôi biết,” Isak đáp, nhìn thẳng vào chị ta. “Tôi đã từng nhìn thấy nó trước đây.”
Trên đường về, anh đi với Axel Ström, dắt theo con cừu. Axel rất kiệm lời, dường như đang lo lắng một điều gì đó, bất kể đó là gì. Có thể thấy rằng cậu ta chẳng cần phải phiền muộn như thế, Isak nghĩ; mùa màng của cậu ta khá ổn, phần lớn cỏ khô đã được đưa vào kho, và cậu ta đã bắt đầu dựng phần gỗ của ngôi nhà. Tất cả đều diễn tiến như phải xảy ra với Axel Ström; một người suy nghĩ chậm chạp nhưng chắc chắn về kết cục. Và giờ đây cậu ta đã có một con ngựa.
“Vậy là cậu đã mua cái trại của Brede?” Isak nói. “Sẽ tự mình canh tác nó chứ?”
“Không, không phải cho tôi. Tôi mua nó cho một người khác.”
“Thế ư!”
“Ông nghĩ sao; tôi có trả quá cao không?”
“Sao, không. Đó là đất tốt đối với một người biết cách khai thác nó.”
“Tôi mua nó cho một người anh của tôi ở Helgeland.”
“Thế à!”
“Tôi nghĩ có lẽ tôi định đổi với ảnh.”
“Đổi với anh ta à?”
“Và có lẽ Barbro sẽ thích nó hơn theo cách đó.”
“Phải, có thể.” Isak đáp.
Họ đi một quãng xa trong im lặng. Rồi Axel nói:
“Họ đã đề nghị tôi nhận công việc coi cái đường đây đó.”
“Đường dây điện thoại? Ừm. Phải, tôi nghe Brede nói anh ta từ bỏ nó.”
“Ừm, “Axel nói, mỉm cười. “Cũng không nhiều nhỏi gì, nhưng Brede đã bỏ nó.”
“Phải, là vậy,” Isak nói, và cố tìm một lời biện hộ cho Brede. “Mất quá nhiều thời gian để coi sóc nó, không còn ngờ gì nữa.”
“Họ đã thông báo với ông ta về năm mới, nếu ông ta không làm tốt hơn.”
“Ừm.”
“Ông nghĩ nếu tôi nhận nó thì có đáng hay không?”
Isak suy nghĩ hồi lâu rồi đáp: “Phải, có tiền đấy, thật vậy, nhưng vẫn…”
“Họ đề nghị trả cho tôi nhiều hơn.”
“Bao nhiêu?”
“Gấp đôi.”
“Gấp đôi à? Sao, vậy thì tôi sẽ nói là cậu nên suy nghĩ thêm.”
“Nhưng giờ họ cũng đã nối tuyến đường dài thêm một ít. Không, tôi không biết làm thế nào thì tốt hơn. Ở đây không có nhiều gỗ để bán như trên chỗ của ông, và tôi cần phải mua thêm nhiều thứ cho công việc mà tôi đã có hiện giờ. Và mua đồ thì cần có tiền mặt trong khi tôi không kiếm được nhiều lắm từ miếng đất và không có gì nhiều để bán. Có vẻ tôi sẽ phải cố gắng một năm với đường dây để bắt đầu…”
Cả hai người đều không nghĩ tới chuyện Brede có thể “làm tốt hơn” và giữ lại công việc đó.
Khi họ lên tới Maaneland, Oline đã có mặt ở đó, đang trên đường xuống. Phải, một sinh vật lạ lùng, Oline đó, lê la khắp chốn với thân hình béo tròn như một con giòi, và đã hơn bảy mươi, nhưng vẫn còn khỏe mạnh. Bà đang ngồi uống cà phê trong lều, nhưng khi nhìn thấy hai người đàn ông lên tới, mọi chuyện phải gác lại cho việc đó, và bà đi ra.
“Xin chào, Axel, và chào mừng trở về từ cuộc mua đấu giá. Cậu không ngại khi tôi ghé vào để xem cậu và Barbro làm ăn ra sao chứ? Và cậu đang làm ăn khấm khá, tôi thấy, đang cất nhà và trở nên ngày càng giàu có hơn! Và anh đã mua cừu hả, Isak?”
“Phải,” Isak nói. “Có thể là bà biết nó?”
“Tôi biết nó không à? Không…”
“Với đôi tai bẹp này, bà có thể thấy.”
“Đôi tai bẹp? Anh có ý nói gì? Điều tôi sẽ nói là: rốt cuộc ai đã mua cái trại của Brede? Tôi vừa mới nói với Barbro ở đây, giờ ai sẽ là láng giềng của cô trên con đường đó? Tôi nói thế. Và Barbro, con bé tội nghiệp, nó ngồi khóc, thật tự nhiên, chắc chắn thế; nhưng Đấng Toàn năng đã ban cho nó một ngôi nhà mới ở trại Maaneland này… Đôi tai bẹp? Tôi từng nhìn thấy khá nhiều cừu trong đời với những đôi tai bẹp các thứ. Và tôi sẽ bảo với anh, Isak, cái máy đó của anh, gần như đôi mắt già nua của tôi không thể nhìn thấy hay hiểu nổi. Và anh tốn bao nhiêu để mua nó tôi cũng không hỏi tới vì tôi chưa bao giờ đếm được tới mức đó. Axel, nếu cậu đã nhìn thấy nó, cậu biết tôi muốn nói gì; trông nó giống như Elijah [10] và cỗ xe lửa của ông ta, và Chúa Trời tha thứ cho tôi nếu tôi bảo là nó…”
Khi đã chuyển tất cả cỏ khô vào kho, Eleseus bắt đầu chuẩn bị cho chuyến trở ra thị trấn. Cậu đã viết thư cho viên kỹ sư báo rằng cậu sắp tới, nhưng lại nhận được một hồi âm khác thường, rằng lúc này đang thời buổi khó khăn, và họ phải tiết kiệm; văn phòng không cần tới sự giúp việc của Eleseus và vị sếp sẽ tự làm những công việc đó.
Những rắc rối các thứ! Nhưng nói cho cùng, một viên thanh tra địa chính thì cần gì một nhân viên văn phòng? Chắc chắn là khi nhận anh chàng Eleseus mới lớn, ông ta chỉ muốn chứng tỏ rằng mình là một con người vĩ đại đối với những thường dân sống giữa chốn hoang vu; và nếu ông ta cho cậu quần áo, chỗ ăn ở, cho tới khi cậu được phê duyệt, ông ta cũng đã nhận được sự đền bù với công việc viết lách của cậu, điều đó đúng. Giờ cậu bé đã trưởng thành, và mọi thứ đã khác xưa.
“Nhưng,” viên kỹ sư viết, “nếu cậu trở lại, tôi sẽ làm tất cả những gì tôi có thể để tìm cho cậu một nơi khác, dù có lẽ đó là một việc khó khăn, vì ngày càng có nhiều thanh niên hơn muốn tìm kiếm cơ hội đó. Trân trọng…”
Eleseus có thể trở lại thị trấn, dĩ nhiên, không có vấn đề gì trong chuyện đó. Cậu có tự vứt bỏ bản thân không? Cậu muốn tấn tới trong đời. Và cậu không nói lời nào với những người thân về tình hình thay đổi; việc đó chẳng ích gì, và thật ra, cậu cảm thấy toàn bộ chuyện này khá là hài hước.
Dù sao thì cậu cũng không nói gì. Cuộc sống ở Sellanraa lại tác động lên cậu; đó là một cuộc sống tầm thường, không tên tuổi, lặng lẽ và trì trệ, một cuộc sống như mơ; không có gì để cho cậu đi quanh khoe khoang, cặp kính là thứ cậu không cần dùng tới. Cuộc sống thị trấn đã phân ly cậu, khiến cậu đẹp đẽ hơn những người khác và cũng yếu ớt hơn; cậu bắt đầu thật sự cảm thấy rằng cậu phải sống vô gia cư ở bất cứ nơi nào. Cậu đã lại thích cái mùi của cây cúc ngải. Hãy để điều đó trôi qua. Nhưng chẳng có ý nghĩa gì trong việc một thanh niên làm nông đứng lắng nghe những cô gái vắt sữa bò vào những buổi sáng và nghĩ thế này: họ đang vắt sữa, hãy nghe nào; hầu như đó là một thứ âm thanh tuyệt diệu, một dạng bài ca không nói tới gì khác ngoài những dòng nước nhỏ, khác với những ban nhạc gõ rùm beng ở thị trấn, Đội quân Cứu tế và tiếng còi của những con tàu chạy hơi nước. Thứ âm nhạc đang chảy vào một cái xô…
Việc biểu lộ quá nhiều những cảm giác của mình không phải là cách thức ở Sellanraa, và Eleseus thấy sợ giây phút cậu phải nói lời từ giã. Hiện giờ cậu đã được trang bị tốt; mẹ cậu lại cho cậu một mớ đồ lót, và cha cậu đã ủy nhiệm cho ai đó đưa tiền cho cậu khi cậu bước ra khỏi cửa. Tiền! Lẽ nào Isak thật sự có thừa một thứ như tiền? Nhưng đúng là vậy, không gì khác. Inger đã gợi ý rằng chắc chắn đó sẽ là lần cuối cùng; bởi vì không phải Eleseus sẽ ăn nên làm ra và tự mình ngoi lên trong thế giới hay sao?
“Ừm,” Isak nói.
Có một bầu không khí trang nghiêm, lặng lẽ trong nhà; mỗi người đã dùng một quả trứng luộc trong bữa ăn cuối, và Sivert đã ra đứng bên ngoài, sẵn sàng đi xuống đồi cùng anh cậu để vác giùm đồ đạc. Đây chính là lúc Eleseus bắt đầu.
Cậu bắt đầu với Leopoldine. “Chúc khỏe mạnh tốt lành,” cô bé đáp lại lời từ biệt. Cũng tương tự với cô hầu gái Jenise, cô đang ngồi chải len và đáp lại “Xin chào.” Nhưng cả hai cô gái đều nhìn cậu đăm đăm. Chết tiệt thật! Và có lẽ tất cả là vì cậu hơi đỏ mắt chút xíu. Cậu bắt tay với mẹ mình, và dĩ nhiên là bà khóc một cách công khai, không màng nhớ rằng cậu ghét việc khóc lóc như thế nào. “Tạm biệt. Chúa phù hộ cho con!” Bà nức nở. Tệ nhất là với cha cậu; tệ nhất là với Isak. Ồ, theo mọi cách; ông quá xác xơ vì lao lực và quá đỗi trung thực; ông đã bế lũ trẻ trên tay mình, đã kể cho chúng nghe về những con mòng biển và những con chim, con thú khác, và những điều kỳ diệu của ruộng đồng; chuyện đó chưa lâu lắm, mới chỉ vài năm… Người cha đứng cạnh cửa sổ, rồi đột nhiên ông quay lại, nắm chặt tay của đứa con trai, nói nhanh và dằn dỗi: “Ờ, tạm biệt. Con ngựa mới đang lỏng dây rồi,” và ông lao ra khỏi cửa, vội vã bước đi. Ồ, nhưng chính ông đã tìm cách làm cho con ngựa bị lỏng dây lúc nãy, và Sivert, thằng nhóc tinh quái, cũng biết chuyện đó, khi nó đứng bên ngoài theo dõi cha, và mỉm cười với chính mình. Và, dù sao đi nữa, con ngựa chỉ đứng trong đồng cỏ.
Cuối cùng Eleseus phải chấm dứt vụ này.
Và thế là mẹ cậu phải bước ra hỏi bậc cửa, lại nấc lên và nói: “Chúa Trời phù hộ cho con!” Và trao cho cậu thứ gì đó. “Cầm lấy nó; và con không cần phải cám ơn cha, ông ấy bảo con không cần làm thế. Và đừng quên viết thư, hãy viết thường xuyên.”
Hai trăm Kroner!
Eleseus nhìn xuống cánh đồng: cha cậu đang nổi giận trong việc đóng một cái cọc cột gia súc xuống đất; dường như ông thấy đó là một vấn đề khó khăn, thật ra đất ở đó khá mềm.
Hai anh em đi xuống con đường; họ đi tới trại Maaneland; Barbro đứng đó trên lối ra vào và cất tiếng gọi họ tới.
“Anh lại đi xa hở Eleseus? Không, anh phải vào đây và ít nhất cũng phải uống một cốc cà phê.”
Họ bước vào lều, và Eleseus không còn là một con mồi của nanh vuốt tình yêu, không nhảy ra khỏi cửa sổ mà cũng không uống thuốc độc; không, cậu trải chiếc áo khoác mùa xuân lên trên đầu gối, chú ý đặt nó sao cho tấm bảng tên bằng bạc lộ ra; rồi cậu dùng khăn tay lau tóc và nhận xét một cách tinh tế: “Một ngày đẹp, phải không? Cổ điển một cách giản đơn!”
Cả Barbro cũng khá bình thản; cô đùa nghịch với chiếc nhẫn bạc trên một bàn tay và chiếc nhẫn vàng trên tay kia. Đúng thế, phải chi cô không có một chiếc nhẫn vàng. Và cô đeo một tấm tạp dề dài từ cổ xuống chân, như để nói rằng cô không hư hỏng như hình dáng của mình, bất kỳ ai khác cũng có thể như thế. Và khi cà phê đã sẵn sàng và khách của cô đang nhấm nháp, cô may vá tí chút, ban đầu trên một mảnh vải trắng, rồi thêu gì đó lên một cái cổ áo, và cứ thế, với mọi cung cách làm việc của một cô gái. Barbro không bối rối với cuộc ghé thăm của họ, và như thế tốt hơn; họ có thể tự nhiên trò chuyện, và Eleseus có thể quay trở lại với tất cả vẻ bề ngoài, trẻ trung và thông minh theo ý muốn.
“Chị đã làm gì với Axel?” Sivert hỏi.
“Ồ, ảnh đi quanh đâu đó trong trại,” cô đáp, vươn người lên. “Và thế là chúng tôi không còn nhìn thấy anh trên con đường này nữa, tôi ngờ là vậy?” Cô hỏi Eleseus.
“Có khả năng là thế,” cậu đáp.
“Phải, đây không phải là chỗ của những ai đã quen với thị trấn. Tôi ước gì tôi có thể cùng đi với anh.”
“Cô không có ý đó đâu, tôi biết.”
“Không có ý đó? Ồ, tôi biết sống ở thị trấn là gì, và nó như thế nào ở đây; và tôi từng sống trong một thị trấn lớn hơn của anh, về vấn đề đó, và tôi có nên nhớ nó không?”
“Tôi không có ý nói thế,” Eleseus vội vàng nói. “Sau khi cô đã sống ở Bergen các thứ.” Thật lạ lùng, nói cho cùng cô đã nhẫn nại biết bao!
“Tôi chỉ biết là nếu không có báo để đọc, tôi sẽ không ở lại đây thêm một ngày nào,” cô nói.
“Thế còn Axel thì sao, và những thứ còn lại? Đó là điều tôi đang nghĩ tới.”
“Về phần Axel thì đó không phải là việc của tôi. Thế còn bản thân anh; tôi ngờ rằng có ai đó đang chờ anh ở thị trấn?”
Nghe thấy thế, Eleseus không kềm được việc đóng kịch chút xíu, cậu khép mắt và co lưỡi lại. Có lẽ đúng là có ai đó đang chờ cậu ở thị trấn. Ồ, nhưng cậu có thể xoay xở chuyện này theo cách hoàn toàn khác hẳn, vồ ngay lấy cơ may, nếu không có Sivert ngồi đó. Và do đó cậu chỉ có thể nói: “Đừng nói vớ vẩn như thế!”
“Thế à,” cô nói. Thật sự, hôm nay cô đã tỏ ra khôi hài một cách vô liêm sỉ. “Vớ vẩn, thật là!… Vâng, anh có thể mong đợi gì ở những người ở Maaneland? Chúng tôi không đẹp đẽ vĩ đại như anh. Không.”
Ồ, cô có thể mà đi gặp bọn quỷ sứ, Eleseus đã quan tâm tới cái gì nhỉ; gương mặt cô rõ ràng rất bẩn, và điều kiện của cô giờ đây khá đơn sơ, thậm chí đối với đôi mắt ngây thơ của cậu.
“Cô có thể chơi đàn một chút không?” Cậu đề nghị.
“Không,” Barbro đáp ngắn gọn. “Điều tôi muốn nói là: Sivert, cậu có thể tới và giúp Axel một ngày với ngôi nhà mới hay không? Cậu có thể bắt đầu vào ngày mai, khi từ làng trở về không?”
Sivert suy nghĩ một lúc. “Ờ, có thể. Nhưng tôi không mang theo quần áo.”
“Tôi có thể chạy lên đó lấy quần áo làm việc của cậu ngay chiều nay, vì thế chúng sẽ có sẵn ở đây khi cậu quay về.”
“Ừ,” Sivert nói, “nếu chị có thể.”
Và lúc này Barbro nôn nao một cách không cần thiết: “Ồ, chỉ mong cậu tới được. Đã sắp tới mùa hè, và ngôi nhà cần được dựng và lợp mái trước những trận mưa thu. Axel ảnh định lên hỏi cậu nhiều lần trước đây, nhưng không thể, vì lý do nào đó. Ồ, cậu sẽ giúp chúng tôi nhiều vô kể!”
“Tôi sẽ giúp với hết khả năng,” Sivert đáp.
Và chuyện đó đã được giải quyết xong.
Nhưng giờ đây tới lượt Eleseus bị xúc phạm. Cậu có thể thấy rõ rằng Barbro rất thông minh khi tìm cách thủ lợi cho mình, và cả Axel cũng vậy, để được giúp cất nhà, nhưng toàn bộ chuyện này hơi quá giản đơn; nói cho cùng, nàng chưa phải là bà chủ của cái trại này, và cũng chưa bao lâu tính từ lúc cậu hôn nàng. Cái cô nàng này! Chả lẽ trong nàng không có một tí ti xấu hổ nào sao?
“Phải,” Eleseus đột nhiên nói: “Tôi sẽ quay lại vào đúng lúc và sẽ là cha đỡ đầu khi cô đã sẵn sàng.”
Cô liếc nhìn cậu, và đáp lời với vẻ bị xúc phạm nặng nề: “Cha đỡ đầu, đúng thật là! Bây giờ ai là người ăn nói vớ vẩn đây, tôi muốn biết? Sẽ có đủ thời gian cho anh khi tôi gửi lời rằng tôi đang tìm kiếm những ông cha đỡ đầu!”
Và Eleseus có thể làm gì ngoài việc phá lên cười một cách ngốc nghếch và ước gì cậu có thể biến khỏi chốn này!
“Cám ơn nhé!” Sivert nói, và đứng lên để đi.
“Cám ơn nhé!” Eleseus cũng nói; nhưng cậu không đứng lên mà cũng không cúi chào như một người đàn ông nên làm khi nói lời cám ơn một cốc cà phê; cậu không làm thế, thật sự.
“Cho tôi xem nào,” Barbro nói. “Ồ, vâng, những người thanh niên tôi sống cùng ở thị trấn, họ cũng có bảng tên bạc trên áo khoác, to hơn tấm này nhiều. Ờ, cậu sẽ ghé vào trên đường trở về nhé, Sivert, và ở lại đêm? Tôi sẽ lấy quần áo cho cậu.”
Và cuộc từ giã Barbro là thế đó.
Hai anh em tiếp tục đi. Eleseus không buồn phiền chút xíu nào về vụ Barbro; cô ta có thể đến với bọn quỷ sứ. Ngoài ra, cậu có hai tờ giấy bạc lớn trong túi! Hai anh em cố không đụng chạm tới những chuyện buồn, chẳng hạn cái cách chào tạm biệt lạ lùng của cha, hoặc việc mẹ đã khóc như thế nào. Họ đánh một đường vòng xa hơn để tránh phải dừng lại ở Breidablik, và nói đùa với nhau về cái mưu mẹo đó. Nhưng khi họ xuống tới chỗ có thể nhìn thấy ngôi làng, và đó là lúc Sivert phải quay trở về nhà, cả hai cư xử theo một cách hơi thiếu nam tính. Chẳng hạn như Sivert, khá yếu đuối khi nói rằng: “Em cho là sẽ hơi cô đơn một chút, có lẽ thế, khi anh đã đi.”
Và khi đó Eleseus phải huýt sáo vang rân, nhìn xuống đôi giày và tìm thấy một mảnh dăm trong ngón tay, và tìm kiếm một thứ gì đó trong túi; một ít giấy tờ, cậu nói, không thể tìm ra… Ồ, mọi chuyện sẽ trở nên ảm đạm với họ nếu Sivert không dành sẵn một hành động vào phút cuối. “Chạm nào!” cậu đột ngột la lên, sờ vào vai của người anh rồi nhảy ra xa. Sau đó mọi chuyện tốt hơn; họ hét lớn vài lời từ biệt từ một khoảng cách xa, rồi mỗi người đi theo con đường của mình.
Định mệnh hay cơ may, bất kể nó là gì. Nói cho cùng, Eleseus đã quay trở lại thị trấn, trở lại một vị trí không còn mở ra cho cậu, nhưng đồng thời lại giúp cho Axel Ström tìm được một người làm việc cho anh ta.
Họ bắt tay vào việc cất nhà vào ngày 21 tháng Tám, và mười ngày sau cái nhà đã được lợp mái. Ồ, đó không phải là một ngôi nhà trông tuyệt lắm, và cũng không cao lắm; điều tốt nhất có thể nói về nó là: đó là một ngôi nhà gỗ chứ không phải một gian lều cỏ. Nhưng ít ra nó cũng có nghĩa rằng lũ gia súc sẽ có một nơi trú ẩn tuyệt vời vào mùa đông bên trong cái cho tới lúc đó đã từng là một ngôi nhà dành cho con người.
[10] Tức Elias, nhà tiên tri người Israel sống vào thế kỷ 9 trước C.N.