Phúc Lành Của Đất- Growth of the Soil (Chương 17)

Knut Hamsun

Eleseus trở về nhà.

Cậu đã xa nhà vài năm, và đã phát triển cao hơn cha mình, với đôi bàn tay trắng trẻo và một vệt sẫm ở phía môi trên. Cậu không làm bộ tịch, mà dường như mong muốn tỏ ra tự nhiên và tốt bụng; mẹ cậu ngạc nhiên và hài lòng. Cậu cùng ở trong căn phòng ngủ nhỏ với Sivert; hai anh em rất hòa hợp với nhau và thường xuyên chơi xỏ nhau cho vui. Nhưng, một cách tự nhiên, Eleseus phải góp phần vào việc cất nhà; và nó khiến cậu trở nên mệt mỏi và khốn khổ, cậu hoàn toàn vô dụng vì đủ loại mệt nhọc về cơ thể. Mọi việc còn tệ hơn khi Sivert phải đi khỏi và để lại mọi thứ cho hai người còn lại. Khi đó Eleseus gần như là một chướng ngại vật hơn là một sự trợ giúp.

Thế Sivert đi đâu? Đó là vì một hôm nọ Oline đã vượt qua dãy đồi với lời nhắc từ ông cậu Sivert rằng ông đang hấp hối; và tất nhiên là anh chàng Sivert trẻ tuổi phải lên đường. Ngay lập tức một tình cảnh tệ hại diễn ra – không gì tệ hơn có thể xảy ra khi Sivert phải đi xa ngay vào lúc này. Nhưng không thể ngăn việc đó lại.

Oline nói: “Tôi không có thời gian để chạy những việc linh tinh, và đó là sự thật, nhưng với tất cả những chuyện đó… tôi đã yêu mến những đứa bé ở đây, tất cả, và nhóc Sivert, và nếu tôi có thể giúp nó về việc nhận thừa kế…”

“Nhưng cậu Sivert có tệ lắm không?”

“Tệ à? Trời đất phù hộ chúng ta, ông ấy đang lịm dần từng ngày một.”

“Vậy ông ấy đang nằm trên giường hả?”

“Nằm trên giường? Sao cháu có thể nói một cách nhẹ nhõm và lơ là về cái chết trước tòa án của Thượng đế như vậy? Không, ông cậu Sivert của cháu sẽ không còn chạy nhảy gì nữa trên cõi đời này.”

Dường như tất cả những chuyện này có nghĩa là ông cậu Sivert không còn sống bao lâu nữa, và Inger nhất quyết rằng Sivert phải lên đường ngay lập tức.

Nhưng ông cậu Sivert, một ông già xỏ lá không thể cải sửa được, không hề nằm chờ chết trên giường; thậm chí chưa hề bị giam hãm ở trên giường chút nào. Khi Sivert trẻ tới, cậu thấy rằng cái chốn nhỏ bé đó đang trong một tình trạng rối ren vô trật tự kinh khủng; họ chưa hoàn tất một cách đúng đắn công việc mùa xuân – thậm chí chưa chở hết ra đồng những phân bón mùa đông; nhưng còn về việc đang tiến dần tới cái chết, cậu không hề nhìn thấy dấu hiệu nào của nó. Ông cậu Sivert giờ đã là một cụ già trên bảy mươi; ông là một dạng người tàn phế, lang thang trong nhà với quần áo lôi thôi, và thường nằm một lúc trên giường. Ông cần sự giúp đỡ cho cái trại đó trong nhiều cách, chẳng hạn như với những tấm lưới cá trích đang treo đến mục trong những nhà kho. Ồ, nhưng với tất cả những điều đó, ông chưa đến lúc sắp trút hơi thở cuối cùng chút xíu nào; ông vẫn có thể ăn cá thiu và phì phèo tẩu thuốc.

Khi Sivert tới đó được nửa giờ và đã nhìn thấy mọi thứ ra sao, cậu muốn quay trở về nhà.

“Nhà à?” Ông cụ hỏi.

“Chúng cháu đang cất một ngôi nhà, và đúng là cha cháu không có ai để giúp một tay.”

“Thế sao!” Ông cậu nói. “Vậy Eleseus có về nhà không?”

“Có, nhưng ảnh không quen với công việc.”

“Vậy cháu tới đây làm gì?”

Sivert kể cho ông nghe về Oline và thông điệp của bà, về việc bà đã nói rằng ông cậu Sivert sắp chết.

“Sắp chết?” Ông cụ kêu lên. “Bà ấy bảo là ta sắp chết, có phải không? Một mụ già ngu ngốc đáng nguyền rủa!”

“Hahaha!” Sivert cười.

Ông cụ nghiêm khắc nhìn cậu. “Sao? Cháu cười nhạo một ông già đang hấp hối, phải không, và cháu đã được đặt tên theo ta các thứ!”

Nhưng Sivert còn quá trẻ để có thể sắm một bộ mặt thiểu não sầu bi cho chuyện đó; cậu chưa bao giờ quan tâm nhiều tới ông cậu của mình. Và bây giờ cậu muốn quay trở về nhà.

“Thế ư, cháu nghĩ thế ư?” Ông cụ nói. “Dù ta đang sắp chết, và điều đó đã đưa cháu tới đây, có phải không?”

“Đó là do Oline bảo thế,” Sivert đáp.

Ông cậu im lặng một lúc, rồi nói tiếp: “Cháu trông kìa. Nếu cháu chữa tấm lưới đó lại đàng hoàng, ta sẽ cho cháu xem một thứ.”

“Ừm, là cái gì vậy?” Sivert hỏi.

“À, đừng bận tâm,” ông già giận dỗi nói và lại leo lên giường.

Rõ ràng đây sẽ là một công việc kéo dài. Sivert nhăn mặt đau khổ. Cậu ra ngoài và quan sát quanh cái trại; mọi thứ bị bỏ bê không quan tâm tới một cách đáng xấu hổ; bắt đầu công việc ở đây là một điều vô vọng. Sau đó một lúc, khi cậu trở vào nhà, ông cụ đã ngồi dậy, đang sưởi ấm bên bếp.

“Thấy cái đó chứ?” Ông chỉ vào một cái rương gỗ sồi nằm trên sàn dưới chân mình. Đó là cái rương tiền của ông. Thật ra, đó là một cái rương ghép được làm để đựng những chai rượu, giống thứ rương mà những vị quan tòa và những nhân vật lớn khác dùng để mang theo khi du lịch quanh đất nước vào thời xưa, nhưng giờ thì không có cái chai nào trong đó; ông cụ đã từng dùng nó để đựng những văn kiện hồ sơ với tư cách là thủ quỹ của huyện; hiện giờ ông cất giữ tiền và những bản thu chi trong đó. Lời đồn cho rằng nó đầy những của cải không đếm xuể; dân làng thường lắc đầu và bảo: “Ái chà! Giá mà tôi có nhiều như những thứ nằm trong cái rương của ông cụ Sivert!”

Cụ Sivert lấy từ cái rương ra một tờ giấy và nghiêm trang nói: “Ta cho là cháu biết đọc?”

Sivert trẻ không giỏi về chuyện đó lắm ở bất kỳ ý nghĩa nào, điều đó đúng, nhưng cậu cũng ít nhiều hiểu được nó ghi rằng cậu sẽ thừa kế tất cả những gì ông cậu của mình để lại khi ông ấy chết.

“Đó,” ông cụ nói. “Và bây giờ cháu có thể làm theo ý muốn.” Rồi ông đặt lại tờ giấy vào cái rương.

Sivert trẻ không có ấn tượng gì cho lắm; nói cho cùng, tờ giấy không nói cho cậu biết thêm gì so với những điều cậu đã biết trước đó; ngay từ hồi còn bé cậu đã nghe rằng một ngày nào đó cậu sẽ có những gì ông cậu Sivert để lại. Tận mắt nhìn thấy kho báu có thể là chuyện khác.

“Cháu ngờ là có vài thứ đẹp đẽ trong cái rương đó,” cậu nói.

“Không có gì nhiều hơn cháu nghĩ,” ông cụ nói ngắn gọn.

Ông nổi giận và thất vọng với đứa cháu họ của mình; ông khóa cái rương lại và leo lên giường. Ông nằm đó, tuôn ra từng tràng thông tin. “Ta từng là thủ quỹ huyện và giám sát viên tiền công cộng trong làng này trên ba mươi năm; ta không cần cầu xin một bàn tay giúp đỡ của bất kỳ ai! Ta muốn biết ai bảo với Oline rằng ta đang nằm chờ chết? Ta có thể cử ba người và một cỗ xe ngựa để mời bác sĩ nếu muốn. Đừng giở trò với ta, chàng trai trẻ! Có vẻ như không thể chờ cho tới lúc ta xuôi tay hả. Ta sẽ đưa cho cháu xem mọi giấy tờ và cháu sẽ thấy, và chúng ở đó, trong cái rương. Đó là tất cả những gì ta phải nói. Nhưng nếu cháu bỏ đi ngay lúc này và bỏ mặc ta, cháu có thể nhắn với Eleseus bảo nó tới đây. Nó không được đặt theo tên ta và được gọi bằng cái tên cúng cơm của ta, cứ để nó tới đây.”

Nhưng với tất cả những lời lẽ dọa nạt đó, Sivert chỉ nghĩ trong một thoáng, và nói: “Dạ, cháu sẽ bảo Eleseus tới.”

Oline vẫn còn ở tại Sellanraa khi Sivert trở về. Bà đã có đủ thời gian để ghé xuống thăm Axel Ström và Barbro, và quay về đầy những bí mật cùng những lời thì thầm. “Cái con nhỏ Barbro đó gần đây đang mưu tính gì đó. Có Chúa biết điều đó có nghĩa là gì. Nhưng đừng nói rằng tôi đã nói thế nhé! Và Sivert đã trở về rồi đấy hử? Tôi cho là không cần phải hỏi có tin gì, phải không? Cậu Sivert của cháu đã quy tiên? Phải, ông đã cao tuổi hạc rồi, đã gần kề miệng lỗ. Sao, chưa chết à? Chà, chà, chúng ta phải tạ ơn nhiều thứ, và đó là một lời trang nghiêm! Cháu bảo là ta đang nói vớ vẩn hả? Ồ ước gì ta không bao giờ có thêm gì để trả lời! Làm sao ta biết được ông cậu của cháu đang nằm đó là chỉ là một kẻ giả vờ trước Chúa? Sẽ không sống bao lâu nữa, đó là những gì ta nói. Và ta vẫn khẳng nhận điều đó khi đến lúc ở trước ngai của Chúa. Đó là những gì cháu nói? Chà, và ông ta không nằm đó trên giường với chính con người của mình, khoanh hai tay trước ngực và nói rằng mọi việc sẽ sớm kết thúc?”

Không việc gì phải cãi lý với Oline, bà khiến những đối thủ của mình bối rối với những lời lẽ và hạ gục họ. Khi bà biết rằng ông cậu Sivert đã cho gọi Eleseus tới, bà chộp ngay lấy điều đó, và lợi dụng nó cho riêng mình: “Cháu đây rồi, và nhìn xem ta có nói vớ vẩn không. Ông già Sivert đang kêu gọi người bà con của mình và khao khát nhìn thấy máu thịt của ông; phải, ông đã gần ngày xuôi tay nhắm mắt! Cháu không thể từ chối ông ấy, Eleseus; hãy lên đường ngay đi và thăm ông cậu của cháu lúc cuộc sống vẫn còn trong ông ấy. Ta cũng sẽ đi đường đó, chúng ta sẽ cùng đi.”

Oline không rời khỏi Sellanraa khi chưa kéo Inger ra một bên để thì thầm nhiều hơn về Barbro. “Tôi không có nói lời nào đấy, nhưng tôi có thể nhìn thấy những dấu hiệu! Và giờ đây tôi cho rằng nó sẽ trở thành vợ và các thứ ở cái nông trại đó. Phải, có những người sinh ra cho những điều vĩ đại, vì tất cả đều có thể bé nhỏ như những hạt cát trong biển cả ở buổi đầu. Và ai mà ngờ được một chuyện như thế ở cái con nhỏ Barbro đó! Phải, Axel chắc chắn là một người cần cù và đang ăn nên làm ra, và đất đai tốt, những phương tiện các thứ như cháu có ở đây, nó nhiều hơn mức chúng ta biết ở chỗ của chúng ta mé bên này dãy đồi, như cháu biết là lời chân thật, Inger, khi cháu chào đời và đã tự vượt thoát khỏi nơi chốn của mình. Barbro có ít len trong một cái rương, chỉ là thứ len mùa đông thôi, tôi không hỏi xin và nó không bao giờ đề nghị cho tôi. Chúng tôi chỉ nói Xin chào và Tạm biệt, với tất cả những gì tôi đã biết về nó từ khi nó còn là một đứa bé hỉ mũi chưa sạch trong suốt thời gian tôi ở trại Sellanraa vì lý do cháu đi xa và học hỏi kiến thức ở Học viện…”

“Bé Rebecca đang khóc,” Inger nói, cắt ngang lời của Oline. Nhưng nàng cho bà một nắm len.

Thế là có cả một bài diễn văn cám ơn từ Oline: phải, bản thân Inger không giống những gì bà đã nói về Barbro; và không tìm đâu ra người giống như nàng trong việc cho người khác thứ này thứ khác; phải, nàng ta sẽ cho đi cho tới khi chỉ còn tay trắng, và cho những ngón tay của mình cho tới xương, không bao giờ than phiền. Phải, hãy vào nhà và thăm em bé thiên thần nhỏ nhắn, và chưa bao giờ trong đời này có một đứa bé nào giống mẹ như Rebecca – không. Inger có nhớ một hôm nọ nàng đã nói rằng nàng sẽ không bao giờ có con nữa? Phải, giờ thì nàng có thể thấy! Không, tốt hơn nên lắng nghe những người đã lớn tuổi và đã có con cái riêng, vì ai có thể đo lường được những cách thức của Chúa Trời, Oline nói.

Sau đó bà lên đường theo sau Eleseus băng qua cánh rừng, teo quắt đi vì tuổi tác già nua và đê tiện, luôn chĩa mũi vào mọi thứ, bất khả tiêu diệt. Giờ bà đang đi tới chỗ ông cụ Sivert, để nói cho ông biết rằng bà, Oline này, đã xoay xở thuyết phục để Eleseus chịu tới đó.

Nhưng Eleseus không cần bị thuyết phục, không có khó khăn gì ở đó. Bởi vì, bạn hãy nhìn xem, rốt cuộc Eleseus đã chuyển biến tốt hơn lúc mới bắt đầu; một chàng trai tao nhã theo cách của cậu, tốt bụng và dễ chịu từ khi còn bé, chỉ có điều không khá lắm về sức mạnh thể chất. Không phải không có lý do khi cậu không muốn trở về nhà lần này; cậu biết rõ mẹ mình đã từng ở tù vì giết trẻ sơ sinh; cậu chưa bao giờ nghe một lời nào về chuyện đó ở thị trấn, nhưng ở nhà và trong làng mọi người đều nhớ. Và không phải không có lý do khi cậu sống chung với những bạn bè thuộc loại khác. Cậu đã trở nên nhạy cảm và có cảm xúc về cái đẹp nhiều hơn hẳn lúc nào trước đó. Cậu biết rằng một cái nĩa cũng thật sự cần thiết như một con dao. Với tư cách một người làm nghề kinh doanh, cậu dùng những từ ngữ của hệ thống tiền tệ mới, trong lúc đó, ở vùng đất hoang vu ngoài kia mọi người vẫn còn đếm tiền bằng đồng Daler cổ. Vâng, không phải cậu không sẵn lòng băng qua dãy đồi tới những vùng khác; ở đây, tại nhà mình, cậu thường xuyên bị buộc phải kềm hãm hãm lại sự vượt trội của mình. Cậu cố hết sức để điều chỉnh bản thân theo những người khác, và cậu xoay xở tốt; nhưng cứ phải luôn thận trọng. Phải, chẳng hạn như khi cậu mới trở về Sellanraa hai tuần trước, cậu đã mang theo chiếc áo khoác nhẹ mùa xuân của mình, dù trời đang là mùa hè; và khi treo nó lên một cây đinh, lẽ ra cậu cũng nên xoay nó sao cho tấm bảng tên bằng bạc với những chữ cái viết tắt tên mình ló ra ngoài, nhưng cậu đã không làm thế. Và với cây gậy của cậu cũng vậy. Đúng, thật ra nó chỉ là một cái cán dù mà cậu đã tháo bỏ đi cái gọng; nhưng ở đây cậu không thể sử dụng nó như ở thị trấn – đu đưa nó trên cánh tay – mà chỉ mang nó sát vào đùi một cách giấu diếm.

Không, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Eleseus băng qua dãy đồi. Cậu không giỏi việc cất nhà; cậu giỏi việc viết thư, một điều mà không phải ai cũng làm được, nhưng trong cả nhà không có ai thèm quan tâm tới nghệ thuật này trừ mẹ cậu. Cậu lên đường băng qua khu rừng một cách vui vẻ, ở khá xa phía trước Oline; cậu có thể chờ bà ở một chặng xa hơn. Cậu chạy tung tăng như một con bê; cậu vội vàng. Theo cách nào đó Eleseus đang lẩn trốn khỏi Sellanraa, cậu sợ bị nhìn thấy. Bởi vì, nói thật, cậu đã mang theo cả chiếc áo khoác mùa xuân lẫn cây gậy cho chuyến hành trình này. Ở mé bên kia đồi có thể có cơ may nhìn thấy mọi người và được mọi người nhìn mình; thậm chí cậu còn thể đi lễ nhà thờ. Và do thế cậu toát mồ hôi một cách vui sướng dưới sức nặng không cần thiết của chiếc áo khoác mùa xuân trong ánh mặt trời nóng bỏng..

Họ không nhớ tới cậu trong lúc xây cất, trái lại là khác. Isak đã có lại Sivert, và Sivert đáng giá ngang với một cả một đám người giống kiểu anh cậu trong công việc đó; cậu có thể gắn mình vào công việc từ sáng tới tối. Không mất bao lâu họ đã dựng xong khung nhà; nó chỉ có ba mặt tường, vì họ dựng lên nó từ một ngôi nhà khác. Và họ ít gặp rắc rối hơn về gỗ; họ có thể cắt những mảnh ván ở chỗ chiếc máy cưa, và đồng thời còn có thêm những mảnh ván bìa cho việc lợp nhà. Thế là vào một hôm đẹp trời căn nhà đã được hoàn thành trước mắt họ, đã lợp mái, làm sàn và lắp cửa sổ. Họ không còn thời gian để làm gì hơn giữa các mùa; việc lắp ván tường và sơn phết phải chờ thôi.

Thế rồi Geissler đến với một đoàn người theo sau, băng qua những ngọn đồi từ Thụy Điển. Và những người đi cùng với ông ngồi trên lưng ngựa, với những con ngựa láng mướt và những bộ yên màu vàng; chắc chắn họ phải là những nhà du hành giàu có; những người đàn ông béo tốt, to cao; những con ngựa oằn người dưới sức nặng của họ. Bốn quý ông và Geissler họp thành một nhóm, và rồi có một cặp người hầu, mỗi người dắt theo một con ngựa chở đồ.

Những kỵ sĩ xuống ngựa ở bên ngoài trại, và Geissler nói: “Đây là Isak. Đây chính là vị bá tước của chốn này. Chào ngày lành, Isak! Tôi đã quay lại, anh thấy đó, như tôi đã nói.”

Geissler vẫn giống hệt ngày nào. Trong suốt chặng đường đó ông đã đi bộ, cung cách của ông cho thấy ông không có chút ý thức nào về việc thấp kém hơn những người còn lại; phải, chiếc áo khoác bung chỉ trông có vẻ cùng khổ của ông khoác hờ hững trên tấm lưng đã teo tóp lại, nhưng ông có một vẻ ngoài cao quý đối với tất cả những điều đó. Thậm chí ông còn nói: “Chúng tôi sẽ lên trên đồi chốc lát, các quý ông này và tôi, sẽ tốt cho họ nếu giúp họ xuống cân chút ít.”

Bản thân các quý ông khá tốt bụng và vui vẻ; họ mỉm cười trước những lời của Geissler và hy vọng Isak thứ lỗi cho họ trong việc tới gây náo loạn trên đất của anh như thế này. Họ có mang theo đồ ăn thức uống của mình, và không định ăn chực trong nhà anh, nhưng họ sẽ rất vui mừng có một mái nhà trên đầu khi đêm xuống. Có lẽ anh có thể bố trí họ nghỉ đêm trong ngôi nhà mới cất đó?

Sau khi họ đã nghỉ ngơi chốc lát và Geissler đã vào nhà với Inger cùng lũ trẻ, cả đoàn cùng đi lên dồi và ở đó cho tới xế chiều. Thỉnh thoảng, trong suốt buổi chiều, những người ở Sellanraa có thể nghe thấy những tiếng nổ nặng nề từ phía xa, và cả đoàn đi xuống cùng với nhiều túi xách mới đựng các mẫu quặng. “Đồng xanh,” họ nói, hất đầu về phía những hòn quặng. Họ nói nhiều, tỏ ra rất hiểu biết, và đang tham khảo một tấm bản đồ mà họ đã vẽ sẵn; trong số họ có một viên kỹ sư và một chuyên gia về mỏ; có một người có vẻ như một ông chủ đất hay một viên giám đốc lớn. Họ nói về những đường ray trên không và việc kéo cáp. Thỉnh thoảng Geissler góp một lời, như thể tư vấn cho họ; họ rất chú ý tới những điều ông nói.

“Ai là chủ của mảnh đất ở phía nam hồ nước?” một người trong bọn hỏi Isak.

“Nhà nước,” Geissler nhanh nhẩu đáp. Ông rất tỉnh táo và sắc sảo, và đang giữ trong tay tờ giấy mà Isak đã từng ký tên vào. “Tôi đã nói với các anh từ trước, Nhà nước,” ông nói. ‘Không cần phải hỏi lại. Nếu các anh không tin tôi, các anh có thể tự tìm hiểu tùy ý thích.”

Muộn hơn vào chiều hôm đó, Geissler kéo Isak ra một bên và nói: “Này, chúng ta có bán cái mỏ đồng đó không?”

Isak đáp: “Sao, về chuyện đó, trước kia ngài đã mua nó từ tôi, và đã thanh toán xong rồi.”

“Đúng,” Geissler nói. “Tôi đã mua mảnh đất. Nhưng lúc đó có một điều khoản rằng anh sẽ có một tỷ lệ phần trăm thu nhập từ việc khai thác hay bán nó; anh có sẵn lòng quyết định phần chia của mình không?”

Isak không thể hiểu nổi vấn đề này, và Geissler phải giải thích. Isak không thể khai thác một khu mỏ mà chỉ là một nông phu và người khai phá đất rừng; bản thân Geissler cũng không thể điều hành một khu mỏ. Tiền, vốn? Sao, muốn bao nhiêu cũng có, đừng lo! Nhưng ông không có thời gian, có quá nhiều việc phải làm, luôn phải chạy khắp đất nước, coi sóc tài sản của ông ở miền nam và miền bắc. Và giờ đây Geissler nghĩ tới chuyện bán nó cho các quý ông Thụy Điển này; họ là bà con của vợ ông, tất cả bọn họ, và là những người giàu có. “Anh có hiểu ý tôi không?”

“Tôi sẽ làm theo cách mà ngài muốn,” Isak đáp.

Một điều lạ lùng – sự tin tưởng hoàn toàn này dường như an ủi Geissler một cách diệu kỳ trong tấm áo khoác xơ xác của ông. “Tốt, tôi không chắc đây có là điều tốt nhất mà anh có thể làm không,” ông trầm ngâm nói. Rồi đột nhiên ông chắc chắn và nói tiếp: “Nhưng nếu anh cho tôi được tự do hành động theo ý mình, tôi có thể làm tốt hơn cho anh ở bất kỳ giá nào so với việc anh có thể tự làm cho mình.”

“Ừm,” Isak bắt đầu. “Ngài luôn là một người tốt đối với tất cả chúng tôi ở đây…”

Nhưng Geissler cau mày khi nghe thấy thế và cắt ngang lời anh: “Vậy thì được rồi.”

Sáng hôm sau mấy quý ông ngồi xuống để viết. Đó là một vụ việc nghiêm túc; trước hết là một bản hợp đồng bốn mươi ngàn Kroner cho việc bán khu mỏ, rồi một văn kiện mà trong đó Geissler nhượng lại toàn bộ số tiền này cho vợ và các con của ông. Isak và Sivert được gọi tới để chứng nhận chữ ký của các văn kiện này. Khi việc đã xong, các quý ông muốn mua lại phần trăm của Isak với một khoản tiền buồn cười – năm trăm Kroner. Tuy nhiên, Geilssler ngăn việc đó lại. “Chỉ nói đùa thôi,” ông nói.

Bản thân Isak chỉ hiểu rất ít về toàn bộ vụ này; anh đã bán chỗ đó một lần, và đã nhận tiền. Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, anh không quan tâm mấy tới những đồng Kroner – chúng không phải là tiền thật như đồng Daler. Trái lại, Sivert đã theo dõi vụ mua bán với nhiều hiểu biết hơn.

Có một cái gì đó khác thường, cậu nghĩ, về giọng điệu của những lời đàm phán này; trông nó rất giống với một vụ việc gia đình giữa các bên. Một trong những người lạ nói: “Anh Geissler thân mến, anh không nên để cho mắt đỏ như thế, anh biết đó.” Geissler đáp lại một cách sắc sảo nếu không phải là đánh trống lãng: “Không, tôi không nên, tôi biết. Nhưng tất cả chúng ta đều không có được thứ mà ta nên có trên cõi đời này!”

Trông rất giống như thể anh em và bà con của vợ ngài Geissler đang cố mua đứt tài sản của chồng bà, bảo đảm cho họ chống lại những chuyến thăm viếng trong tương lai của ông, và cắt đứt một mối quan hệ phiền hà. Còn về phần cái mỏ, bản thân nó cũng có chút giá trị nào đó, chắc chắn là vậy, không ai chối cãi điều đó; nhưng nó nằm cách xa đường đi lại, và bản thân những người mua cũng nói rằng họ chỉ mua nó để bán lại cho một ai đó có thể khai thác nó tốt hơn. Không có gì phi lý trong chuyện đó. Họ cũng thông báo, hoàn toàn thẳng thắn, rằng họ không có ý tưởng nào về việc họ sẽ kiếm được bao nhiêu từ nó như nó hiện nay; nếu nó được khai thác, khi đó số tiền bốn mươi ngàn có thể hóa ra chỉ là một phần giá trị của nó; còn nếu nó cứ nằm đó như thế, số tiền kể như đã quẳng qua cửa sổ. Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, họ muốn có một quyền hạn rõ ràng, không phiền toái, do đó họ đề nghị Isak năm trăm Kroner cho phần chia của anh.

“Tôi thay mặt cho anh ta,” Geissler nói, “và tôi sẽ không bán phần chia của anh ta dưới mười phần trăm số tiền mua mỏ.”

“Bốn ngàn!” mấy người kia nói.

“Bốn ngàn!” Geissler nói. “Đất là của anh ấy, và phần chia của anh ấy là bốn ngàn. Nó không phải là của tôi, và tôi nhận được bốn mươi ngàn. Hãy suy nghĩ sâu về điều đó, nếu các anh vui lòng.”

“Vâng, nhưng…bốn ngàn Kroner!”

Geissler đứng lên, và nói: “Số tiền đó, hoặc không mua bán gì cả.”

Họ suy nghĩ cẩn thận, thì thào về chuyện đó, bước ra sân, trao đổi một lúc lâu. “Hãy chuẩn bị ngựa,” họ gọi mấy người hầu. Một trong các quý ông vào nhà gặp Inger và chi trả một cách vương giả cho khoản cà phê, vài quả trứng và việc ở trọ của họ. Geissler bước quanh quẩn với vẻ bất cần, nhưng trong mọi lúc ông vô cùng tỉnh táo.

“Cái công trình thủy lợi đó đã hoạt động thế nào hồi năm ngoái?” Ông hỏi Sivert.

“Nó đã cứu được toàn bộ mùa màng.”

“Cháu đã cắt cái gò đất đó từ lúc ta ở đây lần trước, phải không?

“Vâng.”

“Cháu phải có một con ngựa khác trong trại,” Geissler nói. Ông chú ý tới mọi thứ.

Một trong số các người lạ đi lên. “Nào, chúng ta hãy giải quyết vấn đề này và kết thúc nó,” ông ta nói.

Tất cả bọn họ lại trở vào ngôi nhà mới, và Isak trông thấy bốn ngàn Kroner đã được đếm sẵn. Geissler nhận một tờ giấy mà ông nhét vào túi mình như thể nó không có chút giá trị gì. “Hãy giữ nó một cách cẩn thận,” họ bảo ông ta, “và trong vòng vài ngày vợ anh sẽ nhận được số tiền đó từ ngân hàng.”

Geissler nhăn trán lại và nói vắn tắt: “Rất tốt.”

Nhưng họ còn chưa kết thúc với Geissler. Không phải ông đã mở miệng để yêu cầu bất cứ điều gì; ông chỉ đơn giản đứng đó, và họ hiểu vì sao ông đứng đó: có lẽ ông đã quy định trước về một vấn đề nhỏ nhặt nào đó trong đơn từ của mình. Người đứng đầu nhóm trao cho ông một xấp giấy tờ, và Geissler chỉ đơn giản gật đầu bảo: “Rất tốt.”

“Và bây giờ tôi nghĩ chúng ta nên uống một ly với Geissler,” một người khác nói.

Họ uống, và kết thúc chuyện đó. Sau đó họ chào từ giã Geissler.

Ngay lúc ấy Brede đi lên. Y muốn gì? Chắc chắn là Brede đã nghe thấy tiếng nổ của thuốc súng ngày hôm trước và hiểu rằng có một chuyện gì đó đã diễn ra trên con đường của những khu mỏ. Và giờ đây y cũng tới để sẵn sàng bán một thứ gì đó. Y đi thẳng qua mặt Geissler, và trao đổi trực tiếp với các quý ông; y đã tìm thấy một số mẫu đá đáng chú ý ở quanh đây, hoàn toàn đặc biệt, một số trông như máu, số khác như bạc; y biết mọi khe xó trong những ngọn đồi xung quanh và có thể đi thẳng tới mọi điểm; y biết những mạch quặng dài của một thứ kim loại nặng nào đó – bất kể nó là gì.

“Anh có mẫu không?” Người chuyên gia về mỏ hỏi.

Có, Brede có mẫu. Nhưng họ có thể đi lên và nhìn qua các nơi ngay bây giờ không? Nó không xa lắm. Những mẫu quặng – ồ, có nhiều bao mẫu quặng, cả những rương đầy. Không, y không mang chúng theo, chúng nằm ở nhà – y có thể chạy xuống mang lên. Nhưng sẽ nhanh hơn nếu chạy lên đồi và lấy thêm một ít, nếu họ có thể chờ.

Những người đàn ông lắc đầu và tiếp tục hành trình của họ.

Brede nhìn theo họ với vẻ bị tổn thương. Nếu y cảm thấy một tia hy vọng nào đó lóe lên vào lúc nãy thì bây giờ nó đã biến đi; vận số đã chống lại y; chưa bao giờ có cái gì đi đúng hướng. May cho Brede là y không dễ nản lòng; y nhìn theo những người đàn ông đang phi ngựa xa dần, và cuối cùng nói: “Chúc các ông một chuyến đi thú vị!” Và chỉ có thế.

Nhưng bây giờ y lại tỏ ra khiêm tốn đối với Geissler, sếp cũ của mình, không còn đối xử với ông như kẻ ngang hàng, mà sử dụng những hình thức tôn trọng. Geissler đã lôi từ cái ví tiền của ông ra một số giấy tờ này khác, và bất kỳ ai cũng có thể thấy rằng nó nhét đầy những tờ giấy bạc.

“Giá mà Lensmand có thể giúp tôi một ít,” Brede nói.

“Hãy quay trở về nhà và canh tác đất của anh cho đúng đắn,” Geissler nói, và giúp y không chỉ một ít.

“Tôi có thể dễ dàng mang tới cả một xe mẫu quặng, nhưng không phải tốt hơn khi đi lên đó và nhìn chính bản thân địa điểm trong lúc chúng nằm đó hay sao?” Brede nói.

Geissler không để ý tới y nữa, ông quay sang Isak: “Anh có thấy tôi đã làm gì với tờ giấy đó không nhỉ? Đó là vật quan trọng nhất, liên quan tới nhiều ngàn Kroner. Ồ, nó đây rồi, giữa một xấp tiền giấy.”

“Những người đó là ai?” Brede hỏi. “Chỉ cưỡi ngựa ra ngoài chơi hay để làm gì?”

Không còn ngờ gì nữa, Geissler đã có một lúc thật sự lo âu, và giờ đây ông đã bình thản lại. Nhưng trong con người ông vẫn còn có gì đó của sự sống và sự nôn nao, đủ để làm thêm ít việc nữa, ông đi lên đồi cùng với Sivert, và mang theo một tờ giấy lớn, vẽ một bản đồ của mảnh đất phía nam hồ nước – có Trời biết ông đang nghĩ gì trong đầu. Vài giờ sau đó, khi ông trở xuống trại, Brede vẫn còn ở đó, nhưng Geissler không để ý tới những câu hỏi của y; ông thấy mệt và gạt hắn sang một bên.

Ông ngủ như chết cho tới sáng sớm hôm sau, rồi ông thức giấc cùng với mặt trời và trở lại là ông như trước. “Sellanraa,” ông nói khi đang đứng ở bên ngoài và nhìn quanh quất.

“Tất cả số tiền đó,” Isak nói; “có phải là tôi sẽ có tất cả số đó?”

“Tất cả cái gì?” Geissler nói. “Ôi Trời, anh bạn, anh không thấy rằng lẽ ra nó còn hơn thế rất nhiều hay sao? Và việc của tôi là thật sự thanh toán cho anh, theo hợp đồng của chúng ta; nhưng anh đã thấy mọi chuyện diễn biến thế nào rồi đó. Đó là cách xoay xở duy nhất. Anh nhận được gì nào? Chỉ có một ngàn Daler, theo cách tính cũ. Tôi đang nghĩ lúc này anh cần có thêm một con ngựa nữa cho trang trại.”

“Phải.”

“À, tôi biết một người. Cái anh chàng trợ lý của Heyerdahl, anh ta đang để cho trang trại của mình lụn bại đi; quan tâm nhiều hơn vào việc chạy quanh để bán hàng. Anh ta đã bán đi khá nhiều gia súc của mình, và anh ta sẽ vui lòng bán đi con ngựa.”

“Tôi sẽ đến gặp anh ta về chuyện đó,” Isak nói.

Geissler vẫy bàn tay rộng ra xung quanh và nói: “Ngài bá tước, vị chủ đất, đó là anh! Nhà cửa, gia súc và đất đã canh tác, họ không thể làm cho anh chết đói cho dù có cố gắng làm như thế!”

“Không,” Isak nói. “Chúng tôi có đủ mọi thứ có thể ước ao mà Thượng đế đã tạo ra.”

Geissler đi la cà khắp trại, rồi đột nhiên lộn trở vào nhà gặp Inger. “Cô có thể một lần nữa lo liệu một ít thức ăn để tôi mang đi đường không?” Ông hỏi. “Chỉ cần vài cái bánh xốp – không bơ và pho mát; đã có đủ những thứ ngon lành trong chúng rồi. Không, cứ làm như tôi bảo; tôi không thể mang thêm được.”

Lại đi ra ngoài. Geissler không lúc nào yên, ông đi vào ngôi nhà mới và ngồi xuống viết. Ông đã suy nghĩ trước tất cả mọi điều, và không cần nhiều thời gian để viết chúng ra. Đang thảo một lá đơn gửi cho Nhà nước, ông giải thích một cách trịnh trọng với Isak – “tới Bộ trưởng Bộ Nội vụ, anh có hiểu không. Phải, tôi không bao giờ hết những việc cần phải lo liệu ngay lập tức.”

Khi đã nhận gói thức ăn và chuẩn bị lên đường, dường như ông đột nhiên nhớ ra một điều gì đó: “Ồ, nhân tiện, tôi e là lần trước tôi đã nợ các bạn thứ gì đó, tôi đã rút ra khỏi ví một tờ giấy bạc vì mục đích đó, thế rồi lại nhét nó vào túi áo khoác, Sau đó tôi tìm thấy nó ở đó. Có quá nhiều thứ phải nghĩ tới cùng một lúc…” Ông đặt thứ gì đó vào bàn tay của Inger và cất bước.

Phải, Geissler đã cất bước ra đi, tỏ ra dũng cảm với tất cả. Không hề chán nản mà cũng chẳng có vẻ gần tới hồi kết thúc của mình; sau này ông lại tới Sellanraa, và sau đó nhiều năm nữa ông mới chết. Mỗi lần ông ra đi trại Sellanraa nhớ ông như một người bạn. Isak đã nghĩ tới việc hỏi ông về trại Breidablik, để nhận được lời khuyên của ông, nhưng anh không hỏi. Và có lẽ Geissler sẽ can ngăn anh chuyện đó; sẽ cho rằng việc mua đất để canh tác và trao nó cho Eleseus – một anh thư ký – là một điều liều lĩnh.

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s

%d bloggers like this: