Ông già đọc truyện tình (Chương 7-8)

Luis Sepulveda

Chương 7

Dân chúng tập trung từ sáng sớm, lúc người ta mới chỉ đoán được những tia nắng đầu tiên lấp ló sau những đám mây dày. Họ lục tục kéo nhau tới, đi chân đất, quần xắn tới đầu gối, vừa đi vừa nhảy tránh những đống bùn ở trên đường.Xã trưởng ra lệnh cho vợ mang cà phê và chuối xanh phục vụ mọi người, trong khi hắn phân phát đạn. Mỗi người được nhận ba băng đạn kép, cộng thêm vài điếu thuốc lá được buộc thành bó, diêm và một chai rượu Frontera.— Việc này thì nhà nước trả tiền; các người phải ký giấy biên nhận khi xong việc.Mọi người ăn uống và chuyền tay nhau những ngụm rượu đầu tiên trong ngày.Antonio José Bolivar ngồi cách xa mọi người, và không đụng đến bữa ăn sáng để trong cái nồi sắt trắng.Ông đã ăn từ rất sớm vì biết rằng đi săn khi quá no bụng là một điều không tốt. Người thợ săn bao giờ cũng phải hơi đói, bởi vì cơn đói khiến những giác quan tỉnh táo. Ông không ngừng nhổ nước bọt lên lưỡi dao, mài đi mài lại con dao rừng, rồi nheo mắt lại để kiểm tra độ bén của lưỡi thép.— Chương trình sẽ như thế nào? — Một người hỏi.— Chúng ta sẽ đi tới nhà của Miranda, rồi tính sau.Lão béo rõ ràng không phải là người biết tính toán. Sau khi kiểm tra một cách phô trương khẩu súng Smith&Wesson đã được nạp đạn, hắn chui đầu vào một bộ quần áo bảo hộ mầu xanh bằng ni-lông chật chội. Bộ quần áo bó siết hắn lại làm lộ những ngấn mỡ.Bốn người cùng đi không ai cả gan bình phẩm một lời. Họ chỉ cười thầm khi thấy hắn toát mồ hôi đầm đìa như một cái vòi nước gỉ bị buộc phải chảy tong tỏng mãi không thôi.“Rồi mày sẽ thấy, con sên trần. Mày sẽ biết thế nào là nóng bức trong cái áo mưa kia. Đến con cu của mày cũng sẽ bị nấu chín trong đó”.Ngoài xã trưởng, tất cả mọi người đều đi đất. Dân chúng bọc mũ rơm trong túi ni lông, còn xì-gà, đạn, diêm… đều được họ gói cẩn thận để vào trong gùi có nắp bằng cao-su. Họ đeo súng không nạp đạn ở trước ngực.— Xin phép ông, tôi nghĩ đôi ủng cao-su sẽ làm ông vướng víu trong chuyến đi. — Một người nóiLão béo làm ra vẻ không nghe thấy, giơ tay ra hiệu khởi hành.Họ nhanh chóng bỏ lại ngôi nhà cuối cùng của El Ildilio ở lại sau lưng và đi sâu vào rừng. Trời ngớt mưa, nhưng nước mưa nặng nề trút xuống từ những tán lá. Mưa bị giữ lại trên mái cây rừng, rồi đọng lại trên lá, cho đến lúc cành cây không chịu nổi sức nặng, đổ chúng xuống với tất cả hương vị của rừng.Họ đi chậm chạp vì bị ngăn cản bởi bùn, cành cây, và những cây bụi xông ra lấn chiếm con đường mòn với tất cả sức sống mãnh liệt của thiên nhiên.Họ chia thành toán nhỏ để di chuyển dễ dàng hơn. Hai người đi trước dùng dao rừng mở đường. Kế đó là xã trưởng vừa đi vừa thở hổn hển, ướt từ trong ra ngoài. Hai người đi chặn hậu và chặt nốt những cành cây bị bỏ sót.Antonio José Bolivar thuộc vào số người đi cuối.— Mọi người hãy nạp đạn vào. — Lão béo ra lệnh. — Nên chuẩn bị sẵn sàng trước.— Để làm gì, thưa ông. Băng đạn để trong gùi sẽ được khô ráo.— Tôi là người chỉ huy ở đây.— Thưa ngài xã trưởng. Vâng, xin tuân lệnh, đúng đây là đạn của chính phủ. — Mọi người giả vờ nạp đạn.Sau năm giờ đi bộ, họ mới đi được khoảng hơn 1km. Rất nhiều lần, họ phải dừng lại vì đôi ủng của lão béo.Chân hắn liên tục tụt xuống bùn với tiếng động như thể bùn sắp sửa nuốt toàn bộ thân thể phì nộn của hắn. Hắn cứ vùng vẫy vụng về, để rồi ngập sâu xuống bùn hơn. Mọi người phải xốc nách hắn lên, nhưng chỉ vài bước tiếp theo, bùn lại ngập tới đầu gối hắn.Bất ngờ hắn bị mất mất một chiếc ủng. Bàn chân được giải phóng rút lên trắng nhởn, nhưng để giữ thăng bằng hắn lấp tức dẫm lại xuống đúng vào cái lỗ mà chiếc ủng đã biến mất.Ông già và những người đi cùng phải kéo hắn lên.— Chiếc ủng của tôi. Các người phải tìm nó cho tôi. — Lão béo ra lệnh.— Chúng tôi đã nói nó chỉ gây thêm phiền toái cho ông. Ủng đã mất rồi, hãy làm như chúng tôi. Hãy dẫm lên những cành cây mục. Đi chân đất dễ dàng hơn, chúng giúp chúng ta đi được nhanh hơn.Tức giận, xã trưởng cúi người, cố gắng dùng tay vét bùn. Một việc không thể làm được. Hắn chỉ móc lên những nắm bùn đen nhầy nhụa mà không thể đào được một cái hố trên mặt bùn phẳng.— Nếu tôi là ông, tôi sẽ không làm như thế. — Một người nói. — Người ta không thể đoán được có những con bọ gì đang nằm dưới đó.— Đúng là thế. — Ông già tiếp lời. — Ví dụ như những con bọ cạp. Chúng ẩn sâu dưới bùn chờ cho đến hết mùa mưa, và rất căm ghét kẻ nào quấy rầy chúng. Những con bọ xấu xa ấy rất bẳn tính…Xã trưởng, vẫn cúi người xuống, ngước nhìn ông một cách căm ghét.— Các người nghĩ rằng tôi sẽ nuốt trôi những điều ngu xuẩn ấy à? Các người muốn doạ tôi với những câu chuyện dành cho đàn bà.— Không phải, thưa ngài xã trưởng, ông hãy chờ tôi một tí.Ông già cắt một cành cây. Chẻ đôi một đầu để làm thành một cái dĩa, rồi xọc nó xuống nhiều lần trong đám bùn lõm bõm. Cuối cùng ông rút nó lên, dùng dao cạo bùn một cách thận trọng rồi gạt xuống đất một con bọ cạp ở tuổi trưởng thành. Con bọ còn bị phủ đầy bùn, nhưng người ta có thể nhìn rõ, cái đuôi chứa đầy nọc độc của nó dựng đứng lên.— Ông nhìn thấy chưa. Mồ hôi mồ kê nhễ nhại như ông, đúng là một lời mời ăn tối hấp dẫn với những loài bọ kia.Xã trưởng không nói gì. Hắn trừng trừng nhìn con bọ cạp đang cố gắng chui lại vào đống bùn, rồi rút súng ra bắn liền sáu viên vào nó. Sau đó, hắn rút nốt chiếc ủng còn lại, vứt vào đám lá.Lão béo đã vứt ủng đi, mọi người có thể đi nhanh hơn. Nhưng hắn tiếp tục làm mất thời gian khi leo dốc. Sau khi mọi người leo lên dốc một cách dễ dàng, họ phải dừng lại để nhìn xã trưởng leo lên bằng cả hai chân hai tay. Hắn tiến được hai bước, rồi tụt xuống bốn bước.— Hãy leo lên bằng cách đi giật lùi. — Họ gọi xã trưởng. — Hãy nhìn chúng tôi đây. Nhấc cao chân lên trước khi đặt nó xuống. Ông không chịu nhấc chân cao quá đầu gối. Ông cứ làm như một bà xơ rón rén đi ngang qua cửa trại lính. Nhấc cao chân lên và đi giật lùi.Lão béo, mắt đỏ lên vì giận dữ, tìm cách leo lên bằng cách của mình, nhưng thân thể nặng nề luôn phản bội hắn. Mọi người phải nắm tay nhau thành một dây dài để kéo hắn lên.Lúc xuống dốc thì nhanh hơn. Xã trưởng tụt xuống trong đủ mọi tư thế: ngồi, nằm ngửa, hay nằm sấp. Hắn luôn là người xuống nhanh nhất, người lấm bê bết bùn đất và cành cây.Đến giữa buổi chiều, những đám mây khổng lồ lại bắt đầu tụ lại trên bầu trời. Họ không nhìn thấy, nhưng đoán được vì bóng râm làm cho rừng càng âm u hơn.— Chẳng thể nào tiếp tục đi được nữa. Không còn nhìn thấy gì cả. — Xã trưởng nói.— Đấy mới thật là lời nói chí lý. — Ông già trả lời.— Vậy thì hãy dừng lại ở đây. — Xã trưởng ra lệnh.— Hãy chờ tôi. Tôi muốn tìm một chỗ an toàn hơn.Tôi sẽ không để mọi người chờ lâu lắm đâu. Mọi người hãy hút thuốc, như vậy tôi dễ định hướng lúc quay lại hơn.Ông già trao khẩu súng cho một người trong đoàn. Ông biến đi như bị nuốt chửng trong bóng tối. Những người khác ở lại, chụm tay che mưa, để hút xì-gà.Ông nhanh chóng tìm được một khoảng đất bằng phẳng. Ông đi vài bước chân để đo diện tích và thử thăm dò nền đất với con dao của mình. Đột nhiên, con dao gây một tiếng động như chạm vào sắt, làm ông thở phào nhẹ nhõm. Ông quay trở lại, được định hướng bằng mùi thuốc lá và thông báo với mọi người đã tìm một chỗ để dừng chân qua đêm.— Đáng tiếc là chúng ta không đốt lửa được. — Xã trưởng than phiền. — Có lửa sẽ an toàn hơn.— Như thế này tốt hơn. — Một người nhận xét.— Tôi không thích thế này. Tôi không thích bóng tối. Ngay cả bọn mọi rợ cũng đốt lửa để bảo vệ. — Xã trưởng phân trần.— Ông nghe này, thưa Ông. Chúng ta ở chỗ an toàn. Nếu giả dụ có con thú đang ở đây. Chúng ta không nhìn thấy nó, nhưng nó cũng không nhìn thấy chúng ta. Nếu chúng ta đốt lửa, điều đó giúp cho nó nhìn thấy chúng ta, nhưng chúng ta vẫn không thể nhìn thấy nó, bởi bị lửa làm chói mắt. Ông cứ yên tâm và cố ngủ đi. Tất cả mọi người đều cần một giấc ngủ cho lại sức. Hơn nữa, nên tránh nói chuyện.Mọi người tán thành những lời nói của ông già. Họ thoả thuận nhanh chóng với nhau canh gác. Ông già gác phiên đầu tiên.Đi rừng mệt mỏi làm mọi người thiếp đi nhanh chóng. Họ ngồi xổm như những con chó đang gác. Tay vòng qua đùi, mũ bịt xuống che mặt. Tiếng động đều đều của mưa rừng làm lấp đi những hơi thở đều đều.Antonio José Bolivar ngồi khoanh chân tựa lưng vào gốc cây. Thỉnh thoảng ông lại vuốt ve vào lưỡi dao rừng của mình và chăm chú theo dõi từng tiếng động. Có những tiếng động lặp đi lặp lại đều đặn, tiếng của một khối khổng lồ đập vào nước làm cho ông biết rằng họ đang ở gần một nhánh sông hay một dòng suối đang trong cơn lũ. Vào mùa mưa, mưa rào làm rơi từ những cành cây xuống vô số côn trùng. Cá quẫy lên đớp mồi. Chúng nhảy lên vì sung sướng, và thỏa mãn.Ông nhớ lại lần đầu tiên ông nhìn thấy con cá sông thật sự. Đã lâu lắm, thời mà ông còn ngỡ ngàng với rừng.Một buổi tối đi săn, ông cảm thấy thân thể mình chua loét mồ hôi. Khi đi ngang qua một con suối, ông muốn nhảy xuống tắm. May mắn, một người thổ dân kịp nhìn thấy và cảnh giác gọi ông.— Đừng làm thế, rất nguy hiểm.— Vì có cá pirana hay sao?Không. Người thổ dân giải thích. Cá pirana sống ở chỗ nước lặng và sâu, không bao giờ chúng sống ở nơi nước chảy xiết. Đấy là một loài cá chậm chạp, chúng chỉ trở nên nhanh nhẹn khi bị đói hay ngửi thấy mùi máu.Trong thực tế ông chưa bao giờ có chuyện với chúng. Những người thổ dân Shuars dậy ông, chỉ cần trát vào người mủ cao-su là có thể giữ chúng ở xa. Mủ cao-su làm người ta bỏng rát như bị lột da, nhưng cơn ngứa sẽ biến đi, khi người ta ngâm mình xuống nước lạnh. Cá pirana sẽ bỏ đi khi chúng đánh hơi thấy mùi mủ cao-su.— Còn đáng sợ hơn pirana. — Người thổ dân nói và chỉ cho ông một điểm nổi lên trên mặt suối. Ông nhìn thấy một vết đen dài cỡ độ một mét đang lướt nhanh trong nước.— Đó là cái gì vậy?— Bagre-guacayamo.Một con cá trê. Loài cá trê khổng lồ. Sau này ông đã câu được những con dài tới 2m và nặng hơn 70kg. Ông cũng được biết rằng loài cá này hiền lành, nhưng lại thân thiện đến chết người. Khi nhìn thấy có người dưới nước, chúng liền sán lại để đùa giỡn và những cú vẫy đuôi của chúng có thể đập gẫy sống lưng người ta.Những tiếng đập nặng nề trong nước vẫn tiếp tục. Có thể đó là một con cá trê đang đánh chén no nê những con mối, bọ que, châu chấu, dế con, nhện rừng, hay kiến rừng bị nước mưa gạt xuống.Trong bóng tối, đó là tiếng động của sự sống. Giống như những người Shuars nói: ban ngày có con người và rừng. Ban đêm rừng là một con người. Ông thích thú lắng nghe tiếng động cho đến lúc nó tắt hẳn.Người đến phiên đổi gác ông dậy trước giờ. Anh ta vươn vai bẻ xương răng rắc và đi đến chỗ ông.— Tôi ngủ đủ rồi. Ra chỗ tôi mà ngủ. Tôi đã sưởi sẵn cho lão.— Tôi không mệt. Tôi thích ngủ khi trời rạng sáng hơn một chút.— Có cái gì đang quẫy trong nước, phải không?Ông già kể chuyện con cá cho anh ta. Nhưng ông bị ngắt quãng bởi một tiếng động mới đến từ phía một bụi cây.— Lão có nghe thấy không?— Suỵt! Hạ thấp giọng xuống.— Có cái gì vậy?— Tôi không biết, nhưng chắc chắn là quan trọng. Đánh thức mọi người dậy, nhưng đừng gây tiếng động.Anh ta chưa kịp đứng dậy, thì cả hai đã bị loá mắt bởi một luồng ánh sáng trắng. Nó càng chói hơn do bị khúc xạ bởi nước đọng trên lá rừng.Đó là xã trưởng đang tiến lại gần tay cầm đèn măng-xông, do bị đánh thức bởi tiếng động.— Ông tắt đèn đi. — Không cất cao giọng, ông già cứng rắn ra lệnh.— Tại sao? Có một cái gì đó. Ta muốn xem nó là cái gì. — Lão béo trả lời, chiếu ánh đèn về tứ phía và lên đạn.— Tôi nói với ông tắt cái đồ bẩn thỉu này đi. Bằng một cái gạt, ông lão hất văng cái đèn xuống đất.— Lão có quyền gì…Câu nói của lão béo chìm đi trong tiếng vỗ cánh ầm ĩ. Một thác nước thối đổ lên đầu mọi người.— Xin chúc mừng ông. Chúng ta chỉ còn nước nhổ trại thật nhanh, trước khi kiến rừng đến tranh ăn đống phân tươi này.Xã trưởng đứng đờ người. Hắn sờ soạng tìm cây đèn và cố gắng bám theo mọi người rời bỏ địa điểm.Mọi người lầm bầm những câu chửi không thành tiếng, nguyền rủa sự ngu ngốc của lão béo.Họ đi tới một bụi cây, để mặc mưa quất xối xả vào mặt.— Có chuyện gì đã xẩy ra vậy? Đó là cái gì? — Lão béo hỏi khi mọi người dừng lại.— Phân. Ông không ngửi thấy à?— Tôi biết đó là phân. Chúng ta ngủ dưới một bầy khỉ à?Một thứ ánh sáng mờ nhạt bắt đầu làm rõ nét những bóng người và hình khối của rừng già.— Thưa ông xã trưởng, giá như điều này có thể giúp ông được chút gì. Khi người ta đóng trại trong rừng, thì phải trú dưới một cái cây bị cháy hay đã chết khô. Những con dơi đậu trên đó là những cái chuông báo động tốt nhất. Bởi khi chúng bay theo hướng ngược lại của tiếng động, những con vật đó chỉ cho người ta biết tiếng động đến từ đâu. Nhưng ông đã làm chúng sợ với tiếng quát và cái đèn của ông. Thế là chúng bay mất và ỉa lên đầu chúng ta. Giống như tất cả các loài gặm nhấm, đó là những con vật nhạy cảm. Chỉ cần một tín hiệu nguy hiểm rất nhỏ, chúng sẽ nhả tất cả những gì chứa trong bụng để làm nhẹ mình trước khi bay đi. Thôi, bây giờ ông hãy gội đầu cho kỹ, nếu ông không muốn bị muỗi ăn thịt.Xã trưởng bắt chước mọi người lau chùi những đám phân hôi thối. Khi họ làm xong, thì trời đã đủ sáng để họ tiếp tục lên đường.Họ đi bộ ba tiếng liền, luôn hướng về hướng đông, đi vượt qua các dòng suối đang cơn lũ, các khe hẹp, các bụi cây. Họ vừa đi,vừa ngửa mặt hứng nước mưa trên trời cho tỉnh táo, rồi họ dừng chân bên một đầm nước để ăn uống một cái gì đó.Họ hái quả rừng và bắt cua, mà lão béo từ chối không dám ăn sống. Vẫn quấn tròn mình trong cái áo mưa mầu xanh, hắn run rẩy vì lạnh và tiếp tục than vãn vì không thể đốt lửa.— Chúng ta đã đi gần đến nơi rồi. — Một người nói.— Đúng, nhưng chúng ta sẽ đi vòng ra phía đằng sau. Đi thẳng dọc theo dòng suối sẽ dễ dàng hơn, nhưng con thú vốn thông minh và nó có thể dành cho chúng ta một sự bất ngờ. Ông già đề nghị.Mọi người gật đầu đồng ý, họ nuốt một ít đồ ăn với vài ngụm Frontera.Nhìn thấy lão béo đang đi ra xa, nấp sau một cái cây nhỏ. Họ lấy khuỷu tay hích nhau làm hiệu.— Ông lãnh chúa không muốn chìa cái mông trước mặt chúng ta.— Cái lão ngốc ấy có khi ngu đến mức ngồi xổm trên một tổ kiến lửa mà lại tưởng đang ngồi trên ngai vàng.— Tôi đánh cược là hắn sẽ tự hỏi lấy đâu ra giấy toa-lét để chùi. — Một người khác chêm vào trong tiếng cười vang của mọi người.Họ cười sau lưng con sên trần, giống như họ chẳng chừa dịp vắng mặt nào mà không nhắc đến hắn. Những tiếng cười tự nhiên ngừng bặt bởi một tiếng hét hoảng sợ tiếp đó là một chuỗi tiếng súng. Liền sáu phát, hết cả băng đạn một lúc.Xã trưởng hiện ra, vừa kéo quần lên vừa gọi mọi người.— Mau lên! Mau lên! Tôi đã nhìn thấy nó. Nó ở đằng sau và định vồ. Tôi đã bắn trúng nó rồi. Mau lên! Lại chỗ này đi tìm.Họ lên đạn và chạy về phía lão béo chỉ. Họ lần theo một vệt máu rộng khiến xã trưởng hân hoan và đi đến trước một con vật có một cái mũi dài đang giẫy những cái giẫy cuối cùng trước khi chết. Bộ lông vàng có đốm của nó lấm máu và bùn. Con vật nhìn mọi người, mắt to thao láo. Một tiếng rên khò khè yếu ớt phát ra từ cái mũi dài như cái kèn.— Đây là một con gấu ăn mật. Ông không thể nhìn trước khi bắn bằng cái đồ chơi bẩn thỉu của mình à? Bắn chết một con con gấu ăn mật là điềm xấu. Không có một con vật nào trong rừng hiền lành như nó, đến những kẻ ngu ngốc nhất trên đời cũng biết thế.Mọi người gật đầu, cảm động vì sự bất hạnh của con vật khốn khổ, trong khi xã trưởng nạp đạn tiếp và chẳng tìm được điều gì để biện bạch.Đã quá trưa, khi họ nhìn thấy tấm biển quảng cáo phai mầu với dòng chữ Alkaseltzer báo hiệu cái quán của Miranda. Đó là một miếng kim loại bằng đồng xanh với dòng chữ đã mờ gần hết mà chủ quán đóng lên trên một thân cây cao gần túp lều của mình.Họ tìm thấy chủ nhà ở cách cửa một vài mét. Lưng bị xẻ rách bởi hai vết vuốt chạy từ giữa lưng đến thắt lưng. Cổ bị xé nát một cách man rợ, để hở cả xương sống. Người chết nằm sấp mặt, tay vẫn còn nắm chặt con dao rừng.Mọi người kéo hắn vào trong nhà, không thèm bận tâm đến kỳ công của bầy kiến rừng. Chỉ trong một đêm, chúng đã dựng xong một cái cầu bằng lá và cành cây để khai thác cái xác theo ý muốn. Trong nhà, một ngọn đèn dầu còn cháy leo lét. Khắp nơi bốc mùi mỡ bị cháy.Khi đến gần cái bếp dầu, họ phát hiện ra nguồn gốc của mùi mỡ. Cái bếp vẫn còn ấm, nhưng dầu đã cạn, và bấc đã cháy hết. Một cái chảo còn đựng hai cái đuôi kỳ đà đã cháy thành than.Xã trưởng ngắm cái xác.— Tôi không hiểu. Miranda là một người giầu kinh nghiệm, hắn không phải là một thằng chết nhát. Nhưng người ta có thể nói hắn đã hoảng sợ đến mức không kịp nghĩ tới chuyện tắt bếp. Tại sao hắn không đóng cửa lại để chờ con báo? Súng của hắn vẫn treo trên tường. Tại sao hắn không dùng?Những người khác cũng đặt câu hỏi tương tự. Xã trưởng cởi cái áo mưa ra. Một suối mồ hôi đổ ròng ròng xuống tận chân. Mọi người vừa tiếp tục ngắm cái xác chết vừa hút thuốc, uống rượu. Một người sửa lại cái bếp dầu, và xin phép xã trưởng cho phép mở những hộp cá hồi.— Hắn không phải là một thằng tồi tệ.— Từ ngày vợ hắn bỏ đi. Hắn sống đơn độc còn hơn một thân cây khô. — Một người khác tiếp lời.— Hắn không có người thân à?— Không. Hắn tới đây với một người em. Anh ta đã chết vì sốt rét từ lâu. Vợ hắn bỏ hắn đi với một người thợ chụp ảnh rong. Người ta đồn cô ta sống ở Zamora. Có thể thuyền trưởng biết cô ấy hiện sống ở đâu.— Tôi nghĩ là cái quán này cũng giúp hắn kiếm được chút đỉnh. Các người có biết hắn làm gì với số tiền kiếm được.— Tiền của hắn? Hắn chơi bài và chỉ giữ lại tiền đủ để mua hàng dự trữ. Ở đây là như thế, nói như vậy phòng trường hợp ông còn chưa biết. Đấy là lúc rừng đã ăn vào gan ruột người ta. Khi chẳng còn hi vọng gì để bám vào, người ta sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn ấy.Mọi người xung quanh tán thưởng sự tệ hại ấy với một vẻ kiêu hãnh. Đúng lúc đó, ông già đi vào.— Còn một cái xác nữa nằm bên ngoài.Họ vội vàng chạy ra, người ướt lướt thướt vì mưa. Họ phát hiện một cái xác thứ hai. Hắn nằm dang tay ra, quần còn tụt dưới chân. Hai vai bị cầy nát bởi những cái vuốt. Cổ họng rách toang mang đến cho họ một hình ảnh đã bắt đầu trở nên quen thuộc. Con dao rừng cắm xuống đất nói lên rằng nạn nhân không có thời gian để sử dụng nó.— Tôi nghĩ đã hiểu được sự việc. — Ông già nói.Mọi người đứng xung quanh cái xác, và theo dõi trong ánh mắt của xã trưởng những cố gắng để hiểu lời giải thích của ông già.— Xác chết là của Placencio Punan, một gã chẳng mấy khi xuất hiện. Họ có vẻ định ăn cơm cùng nhau. Các ông có thấy hai cái đuôi kỳ đà bị cháy không? Chắc là Placencio mang chúng đến. Người ta không thể tìm thấy loài vật này ở xung quanh đây. Hắn đã phải săn ở đâu đó cách đây ít nhất vài ngày theo đường rừng. Các ông không biết hắn. Hắn không đi tìm vàng như những thằng điên kia. Hắn tin chắc rằng, ở trong rừng sâu, người ta có thể tìm thấy đá quý. Tôi nhớ, có lần hắn kể về Colombia và những viên đá quý màu xanh to bằng nắm tay. Thằng khốn khổ. Chắc hắn muốn trút cho nhẹ bụng, nên đi ra ngoài. Con thú đã bất ngờ vồ hắn trong tư thế đó. Hắn ngồi xổm, tay bám vào chuôi dao cắm xuống đất. Con báo cái đã tấn công hắn từ trước mặt. Nó đã cắm những cái vuốt lên trên vai, và ngoạm răng vào cổ. Miranda phải nghe thấy tiếng kêu, và chỉ kịp chạy ra chứng kiến điều tệ nhất đã xẩy ra. Vì thế hắn chỉ nghĩ tới việc đóng yên con lừa để chạy trốn. Như người ta đã thấy, hắn không đi được xa.Một người lật úp cái xác xuống. Trên lưng hắn còn có những vết phân.— Vẫn còn may là hắn có thời gian để ị. — Anh ta nói. — Họ bỏ cái xác nằm sấp bên ngoài để cho nước mưa rửa sạch hết những dấu vết của hành động cuối cùng mà người chết đã làm trong thế giới này.

Chương 8

Thời gian còn lại trong ngày, người ta dành cho hai cái xác chết.Họ quấn hai người lại bằng cái võng của Miranda, mặt đối mặt, để tránh cho họ đi về cõi vĩnh hằng như những kẻ xa lạ cô đơn. Sau đó họ khâu kín tấm khăn liệm bất đắc dĩ lại, buộc vào đó những hòn đá to ở bốn góc.Họ kéo lê cái gói nặng đến một cái đầm lầy gần đó, nhấc nó lên, lăn nó lấy đà, rồi ném vào đám cỏ lác và hồng nước dại. Cái gói chìm dần, làm sủi những bong bóng to kéo theo nó đám cỏ dại và những con cóc bị bất ngờ.Họ trở về cái quán lúc bóng tối đã làm chủ rừng già. Lão béo phân công mọi người canh gác. Hắn chỉ định hai người canh bốn tiếng một. Sao đó đổi phiên với hai người khác. Còn riêng hắn thì được ngủ yên tới sáng không bị đánh thức.Trước khi đi ngủ, họ nấu cơm với chuối xanh. Khi bữa cơm kết thúc, Antonio José Bolivar rửa sạch hàm răng giả của mình để gói nó vào khăn mùi-xoa. Những người đi cùng nhìn thấy ông lưỡng lự mấy giây. Cuối cùng, trong sự ngạc nhiên của mọi người, ông lại lắp nó lại vào mồm.Được gác phiên đầu, ông già cầm lấy cái đèn dầu.Người cùng phiên gác nghi ngờ nhìn ông đang mở sách ra và dùng kính lúp lướt qua những dòng chữ đều đặn.— Ông biết đọc thật à, ông bạn.— Tôi biết một tí.— Ông đang đọc gì?— Một quyển tiểu thuyết. Thôi ông im đi. Khi ông nói, ông làm rung ngọn lửa, khiến tôi thấy những dòng chữ cũng rung theo.Người kia tránh ra xa để khỏi làm phiền. Nhưng sự chăm chú của ông già dành cho quyển sách khiến anh ta không thể chịu nổi tình cảnh bị gạt ra ngoài rìa.— Nó nói về cái gì?— Về tình yêu.Nghe thấy câu trả lời, anh ta sán lại gần với vẻ rất quan tâm.— Ông không đùa chứ? Có tất cả mọi chuyện… với những người đàn bà giàu có ngoan ngoãn, nóng rực vì thèm khát?Ông gấp quyển sách lại đột ngột làm lung lay ngọn đèn.— Không. Nó nó về những tình yêu khác. Những tình yêu làm người ta đau khổ.Anh ta cảm thấy thất vọng, khom lưng và lảng ra xa một lần nữa. Với một vẻ ngạo mạn, anh ta tu một ngụm rượu lớn, châm một điếu xì-gà, và bắt đầu mài con dao rừng của mình.Anh mài dao lên đá, nhổ nước bọt lên lưỡi thép, mài tiếp, rồi vuốt ngón tay lên lưỡi dao, tán thưởng độ sắc của nó.Ông già chúi đầu vào quyển sách, không để bị phân tán bởi tiếng động khô khan của đá lên trên lưỡi thép. Ông lẩm nhẩm đánh vần như là đang cầu nguyện.— Thôi nào. Ông đọc to lên một tí.— Nói thật sao? Anh cũng thích à?— Tất nhiên rồi. Một lần tôi đi xem phim ở Loja. Đó là một phim Mexico về tình yêu. Làm thể nào giải thích cho ông được nhỉ, ông bạn? Rằng những cái đó có thể làm tôi khóc được.— Nếu thế thì để tôi đọc lại từ đầu, như vậy ông mới biết ai là xấu ai là tốt.Antonio José Bolivar giở lại trang thứ nhất.Vì đọc đi đọc lại nhiều lần, ông đã thuộc lòng.“Paul trao cho nàng một nụ hôn nồng cháy trong khi người cầm lái đồng loã với bạn mình giả vờ nhìn đi chỗ khác. Chiếc Gondola mà bên trong được lót bằng những tấm gối mềm lướt êm ả trên những kênh đào ở Venise”.— Đừng đọc nhanh quá, ông bạn. — Một tiếng nói cất lên.Ông già ngước mắt nhìn. Có ba người đang vây quanh ông. Còn xã trưởng nằm xa hơn một chút trên những cái bao tải được xếp chồng lên thành đệm.— Có những từ mà tôi không hiểu. — Người vừa nói giải thích.— Ông có hiểu không, ông ấy? — Một người khác hỏi.Ông già cố gắng giải thích những từ xa lạ bằng cách của mình.“Gondola”, “cái hôn nồng cháy”, có vẻ như đã rõ ràng hơn sau hai giờ bàn tán chen lẫn những giai thoại lý thú. Nhưng bí mật của thành phố nơi người ta phải dùng thuyền đi lại vẫn ở trong tình trạng không thể giải thích được.— Có thể thời tiết lúc nào cũng mưa.— Hay là nước sông vào mùa lũ.— Dân ở đó còn bị lụt lội hơn chúng ta.— Các ông có thấy không? Người ta nốc một chai Frontera, sau đó cần ra ngoài để đi tiểu, để rồi người ta thấy cái gì? Những con cá như là người láng giềng đang giương mõm nhìn mình.Mọi người cười rôm rả, hút thuốc, uống rượu. Xã trưởng ngọ nguậy trên giường.— Để cho các người hiểu! Venise là một thành phố được xây trên một cái phá nước mặn trên bờ biển. Nó thuộc về nước Ý. — Hắn ngáp ở trên giường.— Thế thì đã sao. Những cái nhà đó sẽ nổi như là những cái bè. — Một người nào đó chêm vào.— Nếu đúng như thế, tại sao cần có thuyền? Họ chỉ cần dùng nhà để đi lại trên mặt nước. — Một người khác nhận xét.— Không ngờ các người ngu như thế. Đó là những toà nhà được xây dựng chắc chắn. Có cả nhà thờ, cung điện, pháo đài, cầu cống, đường sá cho dân chúng. Tất cả các nhà đều có móng làm bằng đá tảng. — Xã trưởng tuyên bố.— Làm sao mà ông biết? Ông đã từng đến đấy? — Ông già hỏi.— Không. Nhưng ta có đi học. Cũng chính vì thế mà ta mới là xã trưởng.Những lời giải thích của hắn càng làm cho mọi chuyện phức tạp hơn.— Cứ cho là tôi hiểu ý ông, ngài xã trưởng, dân ở đó họ có những loại đá có thể nổi trên mặt nước, giống như đá xốp. Nhưng ngay cả trong trường hợp như thế, ngay cả khi người ta dùng đá xốp xây nhà; chúng cũng không thể nổi được. Điều đó tôi chắc chắn. Họ nhất định phải dùng cả ván lót ở dưới.Xã trưởng ôm hay tay lên đầu.— Đúng là các người còn ngu hơn cả thiên nhiên. Các người muốn nghĩ thế nào tuỳ các người. Rừng đã làm các người hoàn toàn đần độn. Ngay cả chúa trời cũng chẳng cứu giúp được gì các người. Còn điều này nữa: từ nay về sau,các người dừng gọi ta là ngài xã trưởng nữa. Từ ngày các người nghe lời lão bác sĩ chữa răng, các người chỉ còn có mỗi cái từ ấy trong miệng.— Thế ông muốn mọi người gọi ông như thế nào? Người ta gọi thẩm phán là ngài, gọi linh mục là cha. Ông cũng vậy, người ta phải đặt cho ông một cái tên. Thưa ông xã trưởng.Lão béo muốn chêm thêm thêm vài lời, nhưng một dấu hiệu của ông già làm hắn ngừng lại. Mọi người đã hiểu, họ rút súng, tắt đèn chờ đợi.Từ phía bên ngoài vọng tới một tiếng động khe khẽ của một thân thể di chuyển với sự uyển chuyển thận trọng. Không nghe thấy tiếng chân, nhưng có tiếng thân của con thú chạm nhẹ qua các bụi cây.Tiếng suối dừng lại khi nó lội qua, để rồi tiếp tục rì rầm chẩy to hơn.Thân con thú chuyển động làm thành một nửa vòng tròn xung quanh ngôi nhà. Xã trưởng lại gần ông già.— Chính là nó?— Vâng, con báo cái đã đánh hơi thấy chúng ta.Lão béo vụt đứng dậy. Mặc dù trời tối, lão cũng tìm thấy cửa ra vào và chĩa súng bắn mò vào rừng.Mọi người bật đèn. Họ gật đầu ra hiệu với nhau, nhìn xã trưởng nạp đạn vào súng, không một lời bình luận.— Đấy là lỗi của các người, nếu ta bắn trượt. Các người thức cả đêm để kể những chuyện ngu xuẩn giống như một bọn đồng tính trong khi phải canh gác nghiêm ngặt. — Xã trưởng nói.— Chúng tôi thấy đúng là ông có học. Ngài xã trưởng. Nếu cứ để cho nó đi vòng quanh đến lúc chúng tôi ước lượng được khoảng cách, con thú sẽ không có khả năng chạy thoát. Chỉ cần thêm hai vòng nữa nó sẽ lọt vào tầm bắn.— Tất nhiên. các người bao giờ cũng biết hết. Có thể ta đã bắn trúng. — Lão béo phân trần.— Ông đi ra xem thử, nếu muốn. Nhưng chẳng may ông có bị muỗi đốt, thì đừng rút súng bắn nó. Tiếng động sẽ làm chúng tôi mất ngủ.Sáng sớm, lợi dụng ánh sáng mờ nhạt của ban mai xuyên qua những tán lá rừng, họ đi thám thính xung quanh nhà. Nước mưa không xoá hết dấu con thú để lại qua những bụi cây bị đè rạp. Người ta không thấy vết máu để lại trên lá và dấu của nó mất hút vào rừng sâu.Họ trở về nhà và uống cà phê đen.— Điều tôi không lấy gì làm thích lắm — xã trưởng nói — là con thú này rình mò cách làng El Idilio dưới năm cây số. Con báo cần bao nhiêu thời gian để đi quãng đường đó.— Nhanh hơn chúng ta. Nó có bốn chân, nên có thể nhẩy qua những vũng lầy và nó không đi ủng. — Ông già trả lời.Xã trưởng hiểu mình đã mất hết uy tín với những người đi cùng. Thái độ ông già càng ngày càng trở nên châm biếm. Ở lại đây lâu hơn chỉ thêm mang tiếng vô tích sự và nhát gan của hắn. Để rút lui an toàn, hắn tìm một lý do bề ngoài có vẻ hợp lý.— Hãy nghe tôi, Antonio José Bolivar, chúng ta hãy thoả thuận với nhau. Ông là người có kinh nghiệm đi rừng; Ông biết rừng còn hơn cả chính ông. Chúng tôi ở lại chỉ gây phiền phức cho ông. Ông hãy theo dấu và hạ thủ nó. Nhà nước sẽ trả cho ông năm ngàn đồng. Ông ở lại đây, tuỳ cơ ứng biến. Còn chúng tôi sẽ quay về bảo vệ làng. Năm ngàn đồng. Ông nghĩ thế nào?Ông già lắng nghe lời đề nghị của xã trưởng, im lặng không tỏ thái độ.Trong thực tế điều hợp lý duy nhất là tất cả quay về làng El Idilio. Con báo cái sẽ mò xuống làng tiếp tục cuộc săn người. Lúc đó có thể dễ dàng giăng bẫy bắt nó. Nó nhất định sẽ đi tìm những nạn nhân mới. Thật là ngu xuẩn nếu muốn tranh lấy khu vực hoạt động của nó.Lão béo muốn tránh ông. Hắn giống như con thú mà quyền lực bị những câu nói của ông làm tổn thương. Hắn đã tìm cách rút lui lịch sự để khỏi bị ông bám vào lưng.Ông già không quan tâm về những điều lão béo ròng ròng mồ hôi kia tính toán. Tiền thưởng cũng không làm ông để ý. Ông đang có những mối bận tâm khác trong đầu.Có điều gì thầm bảo ông con thú kia đang quanh quẩn đâu đây. Có thể ngay giờ phút này, nó đang chăm chú theo dõi họ. Không kể từ ít lâu nay ông luôn tự hỏi mình tại sao những nạn nhân của con báo hoàn toàn làm ông thờ ơ. Có thể cuộc sống của ông với những người Shuars đã khiến ông nhìn cái chết như một sự phán xử của công lý. Một hành động tàn bạo, không thể tránh được. Nợ máu phải trả bằng máu.Con thú này, tên gringo đã giết con nó, có thể đã giết cả con đực. Nhưng nhìn từ một phía khác, hành động táo bạo của con báo cái dám liều lĩnh đến gần người, như nó đã làm đêm hôm qua, hay đêm hôm trước nữa để giết Placencio và Miranda, khiến người ta nghĩ rằng nó muốn đi tìm cái chết.Một ý chí không biết từ đâu tới ra lệnh cho ông. Giết con báo là một biểu hiện của tình thương. Ông không thể trốn tránh. Tình thương này không liên quan tới lòng từ bi của một người sẵn sàng tha lỗi cho kẻ khác hay như lúc người ta bố thí. Con báo cái tìm một cơ hội để chết trong một cuộc chiến đấu công khai, trong một cuộc đấu tay đôi mà từ xã trưởng đến những người khác không ai hiểu nổi.— Ông nghĩ thế nào? — Xã trưởng nhắc lại.— Thế cũng được. Nhưng hãy để cho lão thêm xì-gà, diêm, và đạn.Xã trưởng thở phào nhẹ nhõm, và đưa cho ông tất cả những gì ông yêu cầu.Mọi người giải quyết nhanh chóng những chi tiết của chuyến đi về. Họ tạm biệt ông già. Antonio José Bolivar cẩn thận đóng chặt cửa ra vào và cửa sổ của ngôi nhà.Bóng tối đến ngay từ giữa buổi chiều. Ông già quay trở về với việc đọc sách của mình và chờ đợi dưới ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu, giữa tiếng mưa rơi róc rách qua kẽ mái lá.Ông bắt đầu lại từ trang đầu, phật ý vì không hiểu nổi cốt truyện. Ông lần lượt nhẩm lại những câu văn đã thuộc lòng, nhưng chúng thoát khỏi miệng một cách vô nghĩa. Suy nghĩ của ông tản mát ra tứ phía như để tìm một điểm nào đó làm cho nó có thể tập trung nó lại.— Có thể vì mình sợ.Ông tắt đèn và nghĩ đến một câu tục ngữ của người Shuars khuyên người ta vượt lên trên nỗi sợ. Ông nằm duỗi dài trên những đống bao tải, ôm khẩu súng trên ngực, để cho mọi suy nghĩ lắng xuống, giống như những hòn đã cuội được ném xuống nước lúc chúng chạm tới đáy sông.Sao thế, Antonio José Bolivar, có chuyện gì đã đến với ngươi? Đây không phải là lần đầu tiên ngươi đối mặt với một con thú hoá điên. Có chuyện gì khiến ngươi sốt ruột? Sự chờ đợi? Ngươi muốn nó xuất hiện ngay tức khắc, nó phá cửa nhẩy vào để mọi chuyện sẽ kết thúc nhanh chóng?Ngươi biết chuyện đấy không thể xẩy ra. Ngươi biết chẳng có con vật nào đủ ngu ngốc đến mức tấn công vào hang của kẻ lạ. Tại sao ngươi có thể chắc chắn rằng chính ngươi sẽ là mồi săn của con vật? Ngươi không nghĩ rằng với tất cả sự thông minh mà nó đã thể hiện, phần nhiều con báo cái sẽ chọn việc tấn công đoàn người. Nó có thể bám theo, giết từng người một trước khi họ kịp về đến làng El Idilio. Ngươi biết con báo có đủ sức làm như thế. Ngươi đáng lẽ phải dặn trước:” Mọi người đừng đi cách nhau quá một mét. Phải luôn cảnh giác. Chọn chỗ nghỉ trên bờ sông nhưng không được ngủ.” Ngươi biết ngay cả như thế, con thú có thể bám theo dễ dàng, có thể vồ họ, cắn cổ một người và trước khi những người khác kịp hoàn hồn, nó có thể trốn đi để chuẩn bị một cú khác tiếp theo. Ngươi nghĩ rằng con báo coi ngươi là đối thủ của mình? Đ ừng có kiêu ngạo, Antonio José Bolivar. Hãy nhớ rằng ngươi không phải là thợ săn và ngươi luôn luôn từ chối nhận một cái tên như thế. Những con thú dữ bám theo những thợ săn thực sự bởi mùi của nỗi sợ và mùi của dục tính phát ra từ họ. Không. Ngươi không phải là một thợ săn. Dân chúng làng El Idilio thường nói tới ngươi như là thợ săn, nhưng ngươi luôn nói đó không phải là sự thực, bởi vì thợ săn giết thú để chiến thắng nỗi lo sợ. Những nỗi lo sợ khiến người ta phát điên và làm thối rữa cả gan ruột họ.Đã bao nhiêu lần ngươi nhìn thấy những đám người rồ dại này, súng ống đầy người, đi vào rừng để mấy tuần sau ngươi thấy chúng quay lại với những ba-lô chật ních da thú ăn kiến, rái cá, gấu mật ong, mèo rừng, kỳ nhông… nhưng không bao giờ với cái xác của một đối thủ đích thực như con báo cái mà ngươi đang chờ. Ngươi đã nhìn thấy chúng uống say bí tỉ trước đống da để che đi nỗi sợ. Nỗi sợ sinh ra bởi cảm giác bị nhìn thấy, bị đánh hơi thấy, bị khinh bỉ bởi một đối thủ thực sự xứng đáng với cái tên ấy trong rừng sâu.Sự thật là càng ngày càng ít thợ săn, bởi thú rừng đã di cư về miền đông, vượt qua những rặng núi không thể leo được. Chúng càng ngày càng đi xa, đến mức con trăn nước cuối cùng nhìn thấy là ở trong lãnh thổ Brazil. Mặc dù trước đây ngươi đã từng nhìn thấy và săn trăn nước không xa đây lắm.Cuộc đi săn đầu tiên của ngươi là một phán quyết của công lý hay là sự trả thù. Ngươi có thể lật đi lật lại sự việc theo đủ mọi hướng, người sẽ không tìm được sự khác nhau. Con rắn đã tấn công bất ngờ đứa trẻ, con một người khai hoang, trong lúc nó đang tắm. Ngươi rất yêu trẻ con. Đứa bé chưa đến tuổi 12, và con trăn nước đã để lại xác chú bé mềm nhũn như một cái túi da đựng nước. Ngươi có nhớ không? Ngươi đã theo dấu nó bằng thuyền độc mộc và ngươi đã tìm được bãi cát chỗ nó sưởi nắng.Rồi ngươi bày ra những những con hải ly chết để làm mồi và rình. Lúc đó, ngươi còn trẻ và nhanh nhẹn. Ngươi biết rằng sự nhanh nhẹn ấy là lợi thế duy nhất để ngươi không biến thành món ăn của thần sông. Bằng một cú nhẩy phi thường với dao rừng trong tay và một nhát chém ngọt ngươi đã khiến đầu con trăn rơi xuống cát. Trước khi nó có thể vùng lên quấn lấy ngươi, ngươi đã nhảy ra xa trốn dưới bụi cây để tránh những cơn giẫy chết của một cơ thể cuồn cuộn sức lực. Mười một mười hai mét của sự căm thù. Mười một mười hai mét của một bộ da mầu xanh ô liu sẫm, điểm những vòng đen, đang cố gắng tìm cách giết người mặc dù nó đã mất đầu.Cuộc đi săn thứ hai là để trả ơn cho một ông thầy mo người Shuars đã cứu sống ngươi. Ngươi nhớ không? Ngươi đã làm lại thủ thuật để mồi thịt trên bãi cát và rình ở trên cành cây. Ngươi đã nhìn thấy nó nhô từ dưới sông lên. Lần này, ngươi hoàn toàn không có chút căm giận. Ngươi đã nhìn thấy nó nuốt những con chuột chết. Ngươi đã chuẩn bị mũi tên của mình, quấn đầu nó bằng mạng nhện trước khi tẩm thuốc độc. Ngươi đã nhét tên vào ống phi tiêu, rồi nhắm vào phía gáy của con trăn nước.Con trăn trúng tên. Nó dựng đứng dậy đến khoảng ba phần tư chiều dài thân thể. Từ chỗ nấp trên cây, ngươi nhìn thấy cặp mắt mầu vàng với đôi đồng tử nằm dọc đang đi tìm ngươi, nhưng nó không kịp có thời gian mổ lại, bởi thuốc độc ngấm rất nhanh.Sau đó là lễ lột da. Ngươi phải đi tới mười lăm hai mươi bước để dùng dao rừng rạch dọc theo thân nó. Để cho những thớ thịt mầu hồng và máu lạnh ngắt thấm vào cát.Ngươi có nhớ? Lúc ngươi trao cho họ bộ da, những người Shuars nói ngươi không phải là một người trong bọn da trắng, nhưng ngươi là người ở đây.Ngay cả những con báo cũng không xa lạ gì với ngươi, chỉ có điều ngươi không bao giờ săn một con báo con, không chỉ riêng với loài báo mà với tất cả mọi loài đều thế. Người ta chỉ săn những con thú đã đến tuổi trưởng thành, như lệ của người Shuars đặt ra.Ngươi biết những con báo vùng Amazon là những con vật lạ thường, với tính khí khó đoán trước. Chúng không có sức mạnh của những loài báo khác, nhưng lại thông minh tinh tế.“Khi dấu vết của nó quá dễ tìm, khi người ta tưởng bắt được nó đến nơi, đó chính là lúc con báo đang đứng ở đằng sau, mắt nhìn chăm chú vào gáy kẻ săn mình.” Người Shuars nói vậy, và đó là sự thật.Có một lần, theo yêu cầu của những người khẩn hoang, ngươi đã chứng kiến sự khôn ngoan của những con mèo đốm đen to lớn này. Một con báo lớn đã tàn sát bò và lừa, khiến họ yêu cầu ngươi giúp đỡ. Cuộc truy lùng thật vất vả. Đầu tiên con báo để cho ngươi bám theo dấu nó, dẫn ngươi đến tận chân núi Condor, một vùng đất bằng phẳng chỉ có cây bụi lúp xúp, rất thuận tiện để nó rình sát mặt đất. Cho đến khi ngươi hiểu ra cái bẫy của nó, định tìm cách quay trở về rừng già, con báo đã hiện ra chặn đường. Nhưng nó không để cho ngươi có đủ thời gian ngắm bắn. Ngươi đã bắn ba lần đều trượt, và cuối cùng ngươi hiểu, con báo muốn làm cho ngươi mệt mỏi trước cuộc tấn công cuối cùng của nó. Nó muốn làm cho ngươi hiểu, nó cũng biết chờ đợi, có thể nó còn biết ngươi không có nhiều đạn.Đó là một cuộc đấu sòng phẳng. Ngươi có nhớ? Ngươi nằm chờ, không động đậy đến một bắp thịt, chỉ thỉnh thoảng tự tát vào má mình để xua những cơn buồn ngủ. Ba ngày nằm chờ đợi, cho đến lúc con báo cảm thấy đủ tự tin để tấn công. Một thủ thuật tốt, đó là nằm chờ trên mặt đất, súng lên đạn sẵn.Tại sao lại nhớ lại tất cả những kỷ niệm? Bởi vì con báo cái chiếm hết suy nghĩ của ngươi? Cũng có thể ngươi và nó, cả hai đều giống nhau? Sau bốn lần vồ người, con báo đã đủ hiểu biết về con người cũng như ngươi hiểu về loài báo. Có thể ngươi còn biết ít hơn nó. Người Shuars không săn báo. Thịt chúng không ăn được, còn bộ da của một con đủ để làm những đồ trang sức cho mấy thế hệ. Những người Shuars. Ngươi muốn có một người ở bên cạnh ngươi trong lúc này? Tất nhiên rồi, đó là Nushino, bạn của ngươi.— Người anh em, có thể tìm dấu nó không?Nushino sẽ từ chối. Anh sẽ khạc nhổ nhiều lần xuống đất để chứng minh điều mình nói là sự thật. Anh sẽ nói săn báo không làm anh hứng thú. Đấy không phải là việc của anh. Ngươi là một thợ săn của những người da trắng. Ngươi có một khẩu súng, ngươi xâm phạm cái chết bằng cách làm cho nó đau đớn. Người bạn của ngươi, Nushino, sẽ nói rằng con thú duy nhất mà họ giết chỉ để giết là những con cu-li.— Tại sao thế, người anh em? Những con cu-li, chúng chỉ treo mình ngủ suốt ngày trên cành cây.Trước khi trả lời, Nushino sẽ hú lên những tiếng chói tai, để chắc chắn không có con cu-li nào nghe được, và kể rằng: Ngày xưa, có một tù trưởng Shuars trở nên độc ác và dã man. Hắn giết những người đồng loại không lý do, vì thế các già làng quyết định buộc hắn tội chết. Khi hắn biết bị đe doạ, Tnaupi, tên tù trưởng đó, đã biến thành cu-li để trốn. Những con cu-li này, cũng như loài khỉ, đều trông giống nhau. Người ta không thể biết con cu-li nào là hoá thân của tên tù trưởng có tội.— Chuyện đã xẩy ra như vậy. — Nushino kết luận, và nhổ xuống đất một lần cuối trước khi bỏ đi, bởi vì người Shuars bao giờ cũng bỏ đi khi kể hết một câu chuyện để tránh những câu hỏi có thể gây ra những suy luận dối trá.Từ đâu đến với ngươi tất cả những suy nghĩ đó? Thế nào, Antonio José Bolivar? Thế nào, ông già? Dưới gốc cây nào những suy nghĩ miên man đang rình ngươi? Có phải sự sợ hãi đã tìm thấy ngươi? Có phải ngươi chẳng có cách che giấu chúng? Nếu đúng như thế, đôi mắt của sự sợ hãi có thể nhìn thấy ngươi, giống như ngươi nhìn thấy những tia sáng của bình minh chiếu vào nhà qua những kẽ liếp.Ông uống mấy bình cà-phê đen, rồi bắt đầu công việc chuẩn bị. Ông nấu chảy nến ra, nhúng những các-tút đạn vào đó. Phơi khô chúng, cho đến khi chỉ còn một lớp sáp mỏng bám lên trên. Bằng cách đó, ngay cả khi chúng rơi vào nước, những viên đạn vẫn sẽ khô ráo.Phần còn lại của sáp nến, ông bôi nó lên trán, đặc biệt là trên lông mày giống như để tạo ra một cái kính ngắm trên mắt. Như vậy, nếu ông phải đối mặt với con thú trong một bụi cây, cái nhìn của ông sẽ được bảo vệ không bị nhoà bởi nước mưa.Cuối cùng, sau khi kiểm tra độ sắc của lưỡi dao. Ông đi vào rừng tìm dấu con báo.Đầu tiên ông đi thẳng về phía đông theo một đường bán kính dài khoảng 200 bước bắt đầu từ nhà, theo những dấu vết con báo để lại đêm hôm trước.Đến cuối đường bán kính, ông bắt đầu đi theo một hình vòng cung, về hướng Tây Nam.Ông phát hiện thấy những bụi cây bị đè rạp, cành cây bị vùi xuống bùn. Chính ở đây, con thú đã ẩn mình, trước khi lần xuống ngôi nhà. Những bụi cây bị xéo nát lặp đi lặp lại ở những khoảng cách đều đặn, rồi cuối cùng mất hút trên một sườn núi.Ông bỏ qua những dấu vết cũ này, tiếp tục tìm kiếm.Dưới những tầu lá lớn của một bụi chuối rừng, ông nhìn thấy những dấu chân còn mới của con thú. Dấu chân to, gần bằng một nắm tay của một người lớn. Bên cạnh những vết chân, ông tìm thấy những chi tiết nói lên thói quen của nó.Con báo cái không săn mồi. Những cành cây bị gẫy xung quanh những vết chân, hoàn toàn ngược lại với cách săn mồi của bất cứ loài thú ăn thịt nào. Con báo cái đã vẫy đuôi cuồng nhiệt đến mức không thận trọng, bị kích thích khi đến gần những nạn nhân của nó. Không, nó không săn mồi. Nó di chuyển với niềm tin chắc chắn rằng những con mồi của nó là một loài sinh vật hạ đẳng.Ông tưởng tượng nó đang ở chính chỗ này, gầy rộc đi, thở hổn hển, bồn chồn, mắt nhìn chằm chặp, một cái nhìn sững sờ, với tất cả các bắp thịt căng lên, sẵn sàng. Nó đang vẫy đuôi thèm thuồng…— Tốt rồi, cô nàng, bây giờ ta đã biết ngươi đi lại như thế nào. Bây giờ chỉ còn phải biết ngươi ở đâu.Ông nói với rừng, và chỉ có trời mưa đáp lại. Nới rộng hơn bán kính tìm kiếm, ông đi xa nhà hơn tới một chỗ một mô đất, chỗ đó giúp ông, mặc dù trời mưa, có một cái nhìn bao quát tất cả không gian ông đã đi qua. Phía trên đỉnh, cây cối mọc dầy, thấp lúp xúp, ngược lại với những vùng có cây cao có thể giúp ông tránh được một cuộc tấn công sát mặt đất. Ông quyết định bỏ lại điểm cao, đi thẳng về phía tây, hướng về dòng sông Yacuambi chảy gần đâu đó.Trước buổi trưa một chút, trời ngừng mưa, và điều đó làm ông lo ngại. Trời phải tiếp tục mưa, nếu không hơi nước sẽ bắt đầu bốc hơi, và rừng sẽ biến đi trong một đám sương mù dầy đặc. Sương mù sẽ ngăn cản hơi thở, cũng như người ta không thể nhìn xa quá một bước chân.Bất ngờ, ánh nắng như hàng triệu mũi kim bạc xuyên thủng tán cây rừng làm sáng rõ hẳn lên những điểm chúng chiếu xuống. Ông đang đứng dưới một khoảng trời quang mây, lọt mình vào lưới những tia nắng mặt trời đang dội xuống những cành lá ẩm ướt.Lầu bầu dụi mắt, bị hoa lên bởi trăm ngàn ánh cầu vồng, ông vội vàng tránh xa khoảnh rừng, trước khi hơi nước kịp bốc lên thành sương mù đáng sợ.Chính lúc đó, ông nhìn thấy con báo. Bị đánh động bởi tiếng nước đổ bất ngờ, ông quay đầu lại và nhìn thấy nó đang đi về phía nam, cách ông khoảng năm chục mét.Con báo cái di chuyển chậm chạp, nó nhe răng, đuôi cụp vào sườn. Ông nhẩm tính có lẽ nó dài đến hai mét tính từ đầu đến đuôi. Nếu đứng thẳng trên hai chân sau, nó sẽ vượt quá chiều cao của một con chó béc-giê.Con thú biến mất sau một cây nhỏ, rồi lại hiện ra ngay tức khắc. Lần này nó đi về hướng bắc.— Ta biết cái trò này. Nếu ngươi muốn giải quyết mọi vấn đề ở đây, ta sẽ ở lại. Trong đám sương mù, ngươi cũng thế, ngươi sẽ chẳng nhìn thấy được gì. — Ông già kêu lên, chuẩn bị tinh thần, lưng tì vào một gốc cây.Trời ngừng mưa, khiến muỗi rừng xuất hiện ngay tức khắc. Chúng tấn công vào môi, mí mắt, hay bất cứ một khoảng da nhạy cảm hở ra ngoài. Bé tí xíu, chúng chui vào lỗ mũi, lỗ tai, lẩn vào trong tóc. Ông vội vàng nhét một điếu xì-gà vào mồm, nhai nát nó ra, rồi cầm miếng bã ngấm đầy nước bọt, bôi nó lên trên mặt và hai cánh tay.May mắn là trời nắng không lâu thì mưa quay trở lại, nặng hạt hơn, đem lại sự bình yên. Người ta chỉ còn nghe thấy tiếng mưa rơi xuyên qua các tán cây.Con báo xuất hiện nhiều lần, luôn di chuyển theo hướng bắc-nam. Ông già tiếp tục quan sát nó. Ông theo dõi hướng di chuyển của con thú để phát hiện ra cái điểm mà tại đó ở trong bụi cây nó quay ngoắt lại về hướng bắc, để ông khiêu khích nó lần nữa.Ta ở đây. Chính ta đây, Antonio José Bolivar. Sự kiên nhẫn, ta có đủ để bán lại cho ngươi. Ngươi là một con thú đáng kinh ngạc, không nghi ngờ gì nữa. Nhưng ta tự hỏi, thái độ của ngươi là một sự thông minh hay tuyệt vọng. Tại sao ngươi không đi vòng quanh ta? Tại sao ngươi không tấn công ta? Tại sao ngươi không đi về phía đông để bắt ta phải bám theo ngươi? Ngươi đi từ bắc xuống nam, rồi quay lại qua phía tây, và ngươi luôn trở lại đúng đường cũ? Ngươi muốn chặn đường ta ra sông. Đó chính là kế hoạch của ngươi. Ngươi muốn nhìn thấy ta bỏ trốn vào rừng để ngươi đuổi theo. Ta không ngu đâu, cô bạn gái của ta, và ngươi, ngươi cũng không thông minh như ta nghĩ.Ông quan sát nó đi lại, và nhiều lần định bắn. Nhưng ông dừng lại. Phát súng phải chắc ăn và quyết định. Nếu ông chỉ làm nó bị thương, con báo cái sẽ không để cho ông có thời gian nạp đạn lại. Khẩu súng hai nòng của ông, do kim hoả bị hỏng, chỉ có thể bắn hai phát đồng thời cùng một lúc.Thời gian trôi đi, ánh mặt trời yếu dần. Ông hiểu trò chơi của con báo không phải là đuổi ông về phía đông. Nó muốn giữ ông ở đây, chính chỗ này, nó đang chờ trời tối để tấn công.Ông lão nhẩm tính trời còn sáng được khoảng một tiếng, ông phải tận dụng thời gian, để đi ra phía bờ sông tìm một địa điểm an toàn.Ông chờ lúc con báo đi đến điểm tận cùng phía nam và sẽ phải quay đầu lại, thì ông bắt đầu chạy ra phía bờ sông.Ông đi tới một khoảng rừng đã từng được vỡ hoang, và điều đó cho phép ông có thể chạy nhanh hơn. Ông đi xuyên qua nó, ôm chặt khẩu súng trên ngực. Với một chút may mắn, ông sẽ kịp đến bờ sông trước khi con báo phát hiện ra cuộc chạy trốn. Ông biết, ông ở không xa lắm một cái trại bỏ hoang của những người đãi vàng. Ở đó ông có thể tìm chỗ trú ẩn.Ông vui mừng khi nghe thấy tiếng nước sông đang mùa lũ. Sông đã gần bên cạnh. Ông chỉ cần tụt xuống cái dốc phủ đầy dương xỉ, cỡ độ 15 mét nữa là tới bờ sông. Chính lúc đó con báo tấn công ông.Con báo cái, khi phát hiện ra cuộc chạy trốn, đã đuổi theo nhanh và im lặng đến nỗi nó đã chạy song song đến ngang tầm ông, mà không bị ông phát hiện.Ông nhận phải cú sốc của chân trước con báo, lăn tròn xuống dốc. Buồn nôn, ông đứng dậy, giơ cao con dao rừng bằng cả hai tay, chờ cuộc chiến cuối cùng.Phía trên dốc, con báo cái rối rít vẫy đuôi. Tai nó dựng lên, rung rung, đón nhận tất cả những tiếng động của rừng. Nhưng nó không tấn công ông.Ngạc nhiên, ông già khẽ khàng cử động để tìm lại khẩu súng bị văng ra.— Tại sao ngươi không tấn công ta? Ngươi làm cái trò gì?Ông lên đạn, kéo kim hoả và nhắm vào nó. Ở khoảng cách này, ông không thể bắn trượt.Trên cao, con thú không rời mắt khỏi ông. Bất ngờ, nó rên lên một tiếng buồn bã, mệt mỏi, rồi đứng dậy trên hai chân sau.Tiếng trả lời yếu ớt của con đực vọng tới, rất gần. Ông già chẳng khó khăn gì không nhìn thấy nó.Bé hơn con cái, con báo đực nằm dài dưới một gốc cây khô. Nó gầy xọp, da dính vào xương. Một bên đùi gần như bị rứt đứt bởi một viên đạn. Nó thở mệt nhọc, người ta thấy rõ cơn hấp hối của nó rất đau đớn.— Người muốn thế à? Muốn ta thương hại kết liễu đời nó?— Ông già hét lên. Con báo cái biến mất sau bụi cây.Ông lại gần con báo đực bị thương và vuốt ve đầu nó. Con thú nặng nhọc mở một bên mắt. Xem xét kỹ hơn vết thương, ông già thấy kiến rừng đã bắt đầu ăn nó.Ông dí nòng súng vào ngực con vật.— Xin lỗi mày, ông bạn. Thằng Mỹ thối tha kia đã làm hỏng cuộc sống của chúng ta. — Ông bóp cò.Ông không nhìn thấy con báo cái, nhưng ông đoán được, ở trên kia, nó trốn sau bụi cây, người rung lên bởi những giọt nước mắt như một con người.Khi ông tới cái trại bỏ hoang của những người đãi vàng, trời đã tối hẳn. Mưa gió đã làm trôi đi tất cả những lán trại được làm bằng tre. Ông đảo mắt nhìn xung quanh và vui mừng nhìn thấy một cái thuyền độc mộc cũ nằm úp trên bãi sông.Ông cũng tìm thấy một cái túi đựng những lát chuối khô. Nhét đầy chúng vào túi, ông luồn vào dưới bụng cái thuyền, thở phào nhẹ nhõm và nằm ngửa ra.— Ngươi đã gặp may mắn, Antonio José Bolivar. Ngươi có thể bị gẫy xương khi ngã xuống. Đúng thế, một may mắn thực sự, nhờ vào những bụi dương xỉ như là cái đệm ấy.Ông kê súng và dao kề bên tay. Bụng của thuyền độc mộc khá cao, khiến ông có thể ngồi xổm dậy nếu muốn di chuyển tới lui. Chiếc thuyền này dài chín mét, trên mạn thuyền đầy những vết cào xước bởi những tảng đã sắc nơi các ghềnh nó đã đi qua.Sắp đặt xong xuôi, ông ăn một nắm chuối khô, ngon lành hút một điếu xì-gà. Rất mệt mỏi, ông ngủ thiếp đi nhanh chóng.Ông mơ một giấc mơ kỳ lạ. Ông thấy người mình được sơn những mầu sắc sặc sỡ của con trăn, và đang ngồi bên bờ sông để hưởng thụ những đê mê của rượu natema.Trước mặt ông có cái gì đang chuyển động trong không khí, trong cây cỏ, trên mặt nước, ở sâu dưới đáy nước. Một con vật gì đó mang tất cả các hình dạng, cùng một lúc vừa hiện ra vừa bị nuốt mất bởi những hình dạng ấy. Chúng thay đổi liên tục không để thời gian cho đôi mắt lờ đờ, mơ màng của ông kịp nhận biết. Chúng xuất hiện với hình dạng của con vẹt, sau đó chuyển thành con cá trê mồm rộng ngoác đang nhảy lên ăn mất mặt trăng, rồi chúng rơi xuống nước mạnh mẽ như một con trăn đang quấn chặt người ông. Chúng không có một hình dạng nhất định, rõ ràng. Nhưng dù với hình dạng nào, chúng luôn luôn có đôi mắt màu vàng lóng lánh.— Đấy là cái chết của chính ngươi đang đóng giả để bắt ngươi. Chúng làm thế, bởi vì giờ ra đi của ngươi chưa đến. Hãy đuổi chúng đi.Ông thầy mo người Shuars vừa ra lệnh vừa xoa bóp thân thể ông với tro lạnh.Những hình khối với đôi mắt vàng di chuyển khắp nơi. Chúng rời xa, bị nuốt mất bởi chân trời xanh lá cây, tan ra gần phía đường chân trời. Những bầy chim bắt đầu bay lượn và hót những lời ngợi ca hạnh phúc và bình yên.Thế rồi chúng xuất hiện lại trong những đám mây đen đang hung hãn tràn xuống. Một trận mưa đổ xuống những đôi mắt mầu vàng, treo chúng lên cành cây, làm sáng cả khu rừng với một ánh sáng mầu vàng ma quái. Chúng lôi ông một lần nữa vào nỗi hoảng loạn của cơn sốt và sự sự hãi.Ông muốn kêu lên, nhưng nỗi sợ như một loài gặm nhấm cắn đứt lưỡi ông. Ông muốn ăn, nhưng những con rắn mỏng manh đang bay trên trời, quấn mình trói chân tay ông lại. Ông muốn quay trở lại túp lều của mình, lấy lại chỗ của mình trong tấm ảnh ông ở cạnh Dolores. Ông muốn rời bỏ cái mảnh đất tàn bạo này, nhưng những con mắt mầu vàng chặn đường ông. Chúng ở khắp mọi nơi, xuất hiện cùng một lúc. Ngay cả giờ phút này, ông cảm thấy chúng đang ở ngay phía trên thuyền độc mộc. Chiếc thuyền chuyển động, lắc lư, dưới sức nặng của một cơ thể đang đi lại trên mặt gỗ.Ông nín thở để hiểu xem chuyện gì xẩy ra.Không phải. Ông không còn ở trong thế giới của giấc mơ. Con báo cái đang ngồi trên đầu ông. Nó đang đi đi lại lại, dùng những cái vuốt bám chặt vào mặt gỗ của đáy thuyền vốn trơn nhẵn vì bị nước cọ xát. Nó đi từ cuối thuyền ra đầu thuyền. Người ta có thể nghe thấy rất gần, tiếng thở hổn hển bồn chồn của nó.Tiếng nước sông, tiếng trời mưa, tiếng động của con báo là tất cả những gì nối ông với thế giới bên ngoài. Thái độ của con thú bắt ông phải tính toán thật nhanh. Con báo thừa đủ thông minh để hiểu. Ông không chấp nhận sự thách thức giao đấu trong bóng đêm.Nó muốn làm trò gì? Có thể những người Shuars có lý, khi họ nói tới mùi con thú.— Mèo rừng có thể đánh hơi thấy mùi thần chết trong khi con người mang nó trên thân thể mà không biết.Một vài giọt, rồi sau đó một dòng nước hôi hám trộn lẫn với nước mưa, xuyên qua những khe gỗ hở lọt vào trong thuyền.Ông hiểu con báo cái đã bị điên. Nó đang đái ở trên để đánh dấu con con mồi của mình. Nó coi ông đã chết trước khi giáp chiến với ông.Thời gian dài nặng nề trôi qua, cho đến lúc một ánh sáng rụt rè mạo hiểm chiếu vào lòng thuyền.Ông nằm duỗi thẳng ở dưới, kiểm tra xem súng có nạp đạn sẵn sàng. Con báo cái ở phía trên vẫn đi lại không mệt mỏi, với những bước chân càng ngày càng ngắn và sốt ruột.Dựa theo ánh sáng, ông đoán có lẽ trời khoảng giữa trưa, khi ông cảm thấy con báo bước xuống đất. Ông nghe ngóng tiếp những hành động mới của nó, cho đến lúc tiếng động báo cho ông biết, con báo đang đào cái hố dưới lớp đá, được dùng làm nền để úp thuyền.Trườn bằng lưng, ông lùi lại tới điểm tận cùng của khoang thuyền, kịp thời gian để tránh những cái vuốt xuất hiện, thò vào sờ soạng. Ông ngửng đầu lên, tỳ súng vào ngực, bóp cò.Ông kịp nhìn thấy máu bắn ra từ bàn chân con thú, cùng lúc một cảm giác đau nhói ở chân phải làm ông hiểu đã không dự tính đúng được khoảng cách giữa hai chân. Những mảnh đạn gém bật lại cắm vào chân ông.Bất phân thắng bại. Cả hai cùng bị thương. Ông nghe thấy tiếng con báo đi ra xa. Bằng con dao rừng, ông nhấc cái thuyền lên một chút đủ để nhìn thấy nó. Cách đó khoảng 100 mét, nó đang liếm cái chân bị thương.Ông lên đạn, rồi đột ngột lật ngược cái thuyền độc mộc lên. Khi ông đứng dậy, vết thương ở chân làm ông đau ghê gớm. Con báo, ngạc nhiên, nằm dài lên trên tảng đá. Nó đang nhẩm tính khoảng cách từ nó đến con mồi.— Tao đây. Hãy kết thúc trò chơi đáng nguyền rủa này.Ông nghe thấy mình hét lên bằng một giọng nói mà ông không nhận ra được. Cũng không biết ông nói tiếng Tây-ban-nha hay tiếng Shuars. Rồi ông nhìn thấy con báo phi vun vút trên bãi sông trông giống như một mũi tên có đốm, mặc dù một chân nó đã bị thương.Ông ngồi xổm xuống. Con thú khi đến gần ông khoảng năm mét, liền nhảy một cú dài, nanh và vuốt nhe ra.Một sức mạnh vô hình bắt ông chờ đến khi con báo đạt đến độ cao nhất của cú nhảy mới bóp cò. Con thú dừng lại trên không, thân nó vẹo đi, rồi rơi xuống nặng nề, ngực vỡ toang bởi hai viên đạn.Antonio José Bolivar chậm chạp đứng dậy. Ông tiến lại gần con báo chết, xúc động khi nhìn thấy thân nó bị xé nát. Ngực của con vật chỉ còn là một vết thương khổng lồ, những mảnh ruột và phổi phòi ra phía sau lưng.Nó còn lớn hơn là ông dự đoán khi nhìn thấy nó lần đầu tiên. Mặc dù gầy đi, đó vẫn là một con thú tuyệt vời. Một cái đẹp, một kiệt tác không thể làm lại được, ngay cả trong tưởng tượng.Ông già vuốt ve nó, quên hẳn đi cơn đau ở cái chân bị thương. Ông khóc vì xấu hổ, cảm thấy mình xấu xa, hèn hạ. Dù sao đi nữa, ông không phải là kẻ chiến thắng trong trận đấu này.Mắt nhoà đi vì nước mắt và nước mưa, ông đẩy xác con báo ra bờ sông. Dòng sông sẽ mang nó vào trong rừng sâu, tới những nơi chưa từng bị ô uế bởi người da trắng, tới những hợp lưu của rừng Amazon, tới những cái ghềnh nước chẩy xiết. Ở đó những tảng đá sắc như dao, sẽ làm nhiệm vụ xé tan nó ra, để nó vĩnh viễn nằm ngoài tầm tay của những kẻ tệ hại khốn khổ.Ông tức giận vứt khẩu súng xuống sông, và nhìn nó chìm xuống đáy không một chút vinh quang. Con thú bằng sắt tệ hại đáng phỉ nhổ nhất trong tất cả những gì thế giới đã làm ra.Antonio José Bolivar gỡ hàm răng giả, gói nó vào khăn mùi-xoa. Ông không ngừng nguyền rủa thằng Mỹ, kẻ gây ra cái bi kịch này, rồi nguyền rủa xã trưởng, những người tìm vàng, tất cả những kẻ đang làm nhơ bẩn sự trong trắng của rừng Amazon. Ông chặt một cành cây to làm gậy, và chống gậy đi về phía làng El Idilio, về căn nhà của mình, về với những cuốn tiểu thuyết. Những cuốn tiểu thuyết nói về tình yêu với những từ ngữ tuyệt đẹp, để đôi khi ông có thể quên đi sự dã man của con người.

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s

%d bloggers like this: