Ông già đọc truyện tình (Chương 3-4)

Luis Sepulveda

Chương 3

Antonio José Bolivar biết đọc nhưng không biết viết. Giỏi lắm ông chỉ có thể nguệch ngoạc ký tên vào giấy tờ, ví dụ như khi đi bầu cử. Nhưng một sự kiện như vậy rất ít khi xảy ra, nên ông lão có thời gian để quên nó.Ông đọc chậm chạp, giọng thì thầm, lẩm nhẩm từng chữ cái một giống như mồm đang nếm thử một món ăn. Khi đã nhẩm xong một chữ, ông đánh vần lại một hơi. Sau đó ông tiếp tục làm như vậy với một câu. Cứ như thế, ông chiếm lĩnh dần dần những tình cảm, ý nghĩa của từng trang sách.Khi có đoạn làm ông cực kỳ thích thú, ông lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến lúc cảm thấy đủ để nhận ra rằng làm sao ngôn ngữ loài người có thể đẹp tuyệt vời như vậy.Ông thường dùng một cái kính lúp để đọc. Đồ vật này được xếp vào hàng thứ hai trong những đồ dùng quý báu nhất của ông. Nó chỉ đứng sau hàm răng giả.Ông sống trong một căn nhà tranh rộng chừng 10m2, đồ đạc hết sức sơ sài. Một cái võng vải gai, một thùng bia dùng làm giá cho cái bếp dầu, và một cái bàn có chân rất cao. Một hôm, khi cảm thấy đau lưng, ông hiểu rằng tuổi tác đã bắt đầu ngả xuống đời mình. Ông quyết định sẽ ngồi ít nhất. Chính vì thế ông mới đóng cái bàn cao lênh khênh này để có thể đứng ăn, và để đứng đọc sách.Đó là một căn nhà mái lợp bằng rơm, cửa sổ hướng về phía dòng sông. Cái bàn được đặt trước cửa sổ này.Gần cửa ra vào, có treo một cái khăn rửa mặt đã sờn rách, bên cạnh là bánh xà phòng. Ông dùng hết hai bánh một năm. Đó là một loại xà phòng tốt, có nhiều bọt, giặt rửa rất sạch quần áo, bát đĩa, đồ nấu bếp, thân thể và cả đầu tóc.Trên tường trước cái võng, treo một tấm ảnh đã được sửa lại, tác phẩm của một thợ ảnh trên cao nguyên chụp một đôi vợ chồng trẻ.Chàng trai, Antonio José Bolivar, mặc áo vét xanh, áo sơ mi trắng, đeo cà vạt kẻ sọc. Cái cà vạt chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của người thợ ảnh truyền thần.Cô gái, Dolores, khoác trên người những đồ trang sức có thật. Những thứ vẫn còn tồn tại ở một chốn bướng bỉnh trong trí nhớ, nơi vùi sâu gốc rễ của một cuộc đời cô đơn.Chiếc khăn nhung xanh viền đăng ten phủ đầu làm tăng thêm vẻ trang trọng của khuôn mặt, nhưng nó vẫn để lộ mái tóc đen nhánh được rẽ làm đôi, thả xoã xuống lưng. Một đôi hoa tai mạ vàng lủng lẳng ở dái tai, còn cổ cô thì đeo một sợi dây chuyền cũng mạ vàng quấn thành nhiều vòng.Tấm ảnh cũng cho người ta thấy cái áo thêu theo mốt vùng Otavalo mà cô khoác trên ngực. Ở phía trên, đôi môi nhỏ xíu bôi son đỏ của cô gái nở một nụ cười.Hai người quen nhau từ thuở nhỏ ở San Luis, một làng trên cao nguyên, gần ngọn núi lửa Imbabura. Họ đính hôn vào tuổi 13. Hai năm sau hai người tự nhiên trở thành vợ chồng, sau một lễ cưới mà họ không thật sự tham gia, như bị tê liệt bởi một cuộc phiêu lưu quá lớn so với chính họ.Ba năm đầu cái gia đình trẻ con ấy sống trong nhà bố vợ. Đó là một ông già goá, người đồng ý để lại toàn bộ gia sản cho cặp vợ chồng, đổi lại những lời cầu nguyện và hứa hẹn chăm sóc cho ông lúc tuổi già.Ông già qua đời lúc họ xấp xỉ tuổi 19. Hai người thừa hưởng mấy mét đất không đủ để nuôi sống gia đình, và bầy gia súc thì không còn sống sót lấy một con sau những chi phí tang lễ.Thời gian trôi đi, người đàn ông vừa làm ruộng trên mảnh đất của gia đình, vừa đi làm thuê cho những chủ trại quanh vùng. Họ tự bằng lòng với những gì tối thiểu nhất. Điều thừa thãi duy nhất họ có là những lời bình phẩm xấu bụng của mọi người. Những điều đồn đại này không ảnh hưởng đến ông, nhưng làm Dolores ăn không ngon ngủ không yên.Cô không có bầu. Hàng tháng kinh nguyệt đến đều đặn một cách ghê gớm. Mỗi lần tới tháng càng làm tăng thêm sự cô lập của cô.— Con bé này đẻ ra đã vô sinh. — Các bà già nói với nhau.— Tôi đã nhìn thấy kinh của nó từ lần đầu tiên. Nó chứa đầy những con nòng nọc chết. — Một bà già khẳng định.— Con bé này đã chết từ trong ruột. Thứ đàn bà như nó thì dùng làm được việc gì? — Mấy bà già tiếp tục.Antonio cố gắng an ủi vợ. Hai người đi khám hết thầy lang này đến thầy lang khác, thử mọi loại lá thuốc cũng như những loại dầu kích thích sinh sản.Tất cả mọi cố gắng đều vô ích. Tháng này qua tháng khác, người phụ nữ trốn vào góc nhà để che giấu mọi người cái chu kỳ kinh nguyệt đáng xấu hổ.Họ quyết định rời bỏ vùng cao nguyên vào ngày mà người ta nói với ông những lời gợi ý mất danh dự.Có thể đấy là lỗi phía đàn ông. Hãy để cho cô ấy ở một mình vào ngày hội San Luis.Người ta yêu cầu ông mang vợ đến ngày hội tháng 6, bắt cô phải tham dự vũ hội và buổi chuốc rượu tập thể. Khi cha cố vừa quay lưng đi, dân chúng nằm ngả ngớn trên thềm nhà thờ sẽ đua nhau uống rượu mạnh nguyên chất được cất từ mía. Một thứ sản phẩm thừa lấy từ bã làm đường được ép bởi cối xay gió. Rượu làm các thân thể quấn lấy nhau trong sự đồng lõa của bóng đêm.Antonio từ chối khả năng làm bố của một đứa trẻ sinh ra trong hội giả trang. Anh nghe tin chính phủ có chương trình khuyến khích dân đi khai hoang vùng Amazon. Nhà nước hứa chia cho mỗi gia đình một diện tích đất khá rộng, giúp đỡ kỹ thuật, đổi lấy việc họ định cư ở vùng đất biên giới đang tranh chấp với nước Peru. Có thể việc thay đổi khí hậu sẽ chữa lành sự khiếm khuyết của một trong hai người.Gần đến ngày hội San Luis, hai người tập trung tất cả những đồ đạc ít ỏi của mình lại, khóa cửa nhà và lên đường.Phải mất hai tuần, họ mới tới được cảng sông El Dorado. Bằng xe bus, bằng xe tải, hay đơn giản là đi bộ, hai người đi qua những thành phố có tập tục kỳ lạ như Zamora và Loja, nơi người da đỏ Saragurus luôn mặc đồ đen để chịu tang Atahualpa.Sau một tuần hành trình nữa bằng thuyền độc mộc, chân tê dại vì ngồi lâu không được vận động, họ đổ bộ lên bờ ở một khúc quanh của dòng sông, nơi có duy nhất một toà nhà lợp tôn rộng mênh mông. Nó vừa là trụ sở hành chính, vừa là cửa hàng bán công cụ và hạt giống, cũng là nơi ở tạm cho những người mới đến. Đó là lànglàng El Idilio.Ở đấy, sau khi làm xong những thủ tục hành chính ngắn ngủi, người ta trao cho họ giấy chứng nhận quy chế dân khai hoang có dán tem đường hoàng. Họ được chia hai héc-ta rừng, hai con dao, cuốc xẻng, vài hộp hạt giống đã bị mọt ăn cùng một lời hứa hỗ trợ kỹ thuật không bao giờ tới.Hai vợ chồng bắt đầu cuộc sống mới bằng việc dựng tạm một căn nhà gỗ, sau đó lao vào công việc dọn cỏ, vỡ đất. Làm việc quần quật từ sáng sớm tinh mơ đến tối mịt, họ mới chặt được một cây gỗ, vài khóm mây, mấy bụi cây. Nhưng chỉ đến sáng hôm sau, những mầm xanh đã trỗi dậy dưới mặt trời với một sức mạnh như muốn báo thù.Lúc mùa mưa đầu tiên bắt đầu, hai người đã kiệt hết lương thực dự trữ và chẳng biết phải xoay xở thế nào được nữa. Một số dân khai hoang có mang theo những khẩu súng săn cũ kỹ. Nhưng thú rừng rất nhanh và khôn ngoan. Ngay cá dưới sông cũng như muốn chế nhạo họ bằng cách nhẩy lên ngay trước mũi mọi người mà không làm sao bắt được.Bị giam cầm bởi mùa mưa, bởi những cơn bão họ chưa từng biết đến, họ héo mòn trong tuyệt vọng, vì biết số phận mình như những người tù bị kết án tử hình chỉ còn chờ đợi một phép lạ thần kỳ. Họ ngồi ngắm nước lụt dâng lên mênh mông trên sông, nó đang cuốn đi những thân cây bị nhổ bật gốc cùng những xác thú vật trương phềnh.Cái chết bắt đầu với tới những người mới đến khai hoang. Có người vì ăn phải những loại quả dại, có người bị quật ngã bởi những cơn sốt sét đánh. Một người khác nữa biến mất vào bụng một con trăn khổng lồ. Nó quấn anh ta lại, nghiền nát xương thịt để cuối cùng nuốt vào bụng với một sự chậm chạp dã man.Họ đấu tranh vô vọng với mưa gió, mỗi khi một cơn mưa ập tới đe doạ cuốn đi căn nhà gỗ. Họ làm mồi cho muỗi rừng mà trong từng tia sáng của ánh chớp lại được dịp tấn công dữ dội. Chúng đốt vào da thịt, hút máu, rồi để lại trên da những nốt bỏng rát. Ở dưới da những con ghẻ sẽ đục khoét, gây thành những vết thương mưng mủ xanh. Họ bị bao vây bởi thú rừng đói mồi rình mò. Tiếng động của chúng ngăn không cho họ ngủ yên. Vào giây phút tuyệt vọng đó, sự giải thoát đã tới dưới hình dạng những con người cởi trần, mặt mũi bôi mầu đỏ vẽ bằng nhựa quả rucu,[1] đầu và tay họ được trang điểm bằng những vòng lông chim nhiều màu sắc.Đó là những người thổ dân Shuars, do thương cảm số phận họ, đã tới gần đưa bàn tay cứu giúp.Những người da đỏ dạy họ săn bắn, câu cá, dựng nhà có thể chịu được mưa bão, phân biệt các loại quả lành và quả độc, và nhất là dạy họ cách sống với rừng.Khi mùa mưa đã qua, những người thổ dân giúp hai người khai hoang trên sườn núi, đồng thời cũng báo cho họ biết đó là một việc làm vô vọng.Mặc những lời cảnh báo của người da đỏ, họ vẫn gieo những hạt giống đầu tiên, và chẳng cần mất nhiều thời gian cho lắm, họ phát hiện ra đất ở đây rất cằn. Không có tán rừng che, những cơn mưa sẽ bào đất không ngừng nghỉ, khiến cho cây mọc lên không có đủ chất mầu để phát triển. Chúng sẽ chết non trước khi ra hoa, hay bị cắn nát bởi côn trùng.Đến mùa mưa tiếp theo, trên mảnh đất họ mất bao nhiêu công sức khai hoang, đất bị xói mòn trôi theo triền dốc ngay từ cơn mưa đầu tiên.Dolores không chịu đựng nổi đến mùa mưa thứ hai. Cô đã ra đi, bị cuốn đi bởi một cơn sốt dữ dội, người cô héo tới tận xương vì sốt rét.Antonio hiểu là không thể quay trở về làng cũ trên cao nguyên. Những người nghèo có thể tha thứ cho nhau tất cả, trừ sự thất bại.Ông bị kết án phải ở lại nơi này, cùng với những kỷ niệm là người bạn đồng hành duy nhất. Ông muốn trả thù vùng đất đáng nguyền rủa, cái địa ngục mầu xanh đã lấy mất tình yêu và mơ ước của ông. Ông mơ tới một cơn hoả hoạn lớn sẽ biến cả vùng rừng Amazon thành biển lửa.Trong sự bất lực của mình, ông phát hiện ra mình chưa thật hiểu biết đầy đủ về rừng để có thể thật sự căm ghét nó.Ông học tiếng Shuars bằng cách tham gia đi săn với họ. Họ săn heo vòi, khỉ, rắn, lợn rừng khoang… Ông học họ cách sử dụng ống phi tiêu. Nó không gây tiếng động và rất hiệu quả để săn thú rừng, rồi học họ cách sử dụng lao để xiên những con cá bơi nhanh nhẹn dưới suối.Từ khi chơi với họ, ông bỏ dần sự ngượng ngùng của một người nông dân theo đạo Cơ-đốc. Ông ở trần và tránh quan hệ với những dân khai hoang mới tới. Những người này nhìn ông như một kẻ điên dại.Antonio chẳng bao giờ nghĩ đến chữ tự do, nhưng ông được hưởng một sự tự do vô tận trong rừng. Ông cố gắng nghĩ tới kế hoạch trả thù, nhưng ông không thể tự cấm mình yêu cái thế giới này, đến mức quên đi tất cả những điều đó. Ông bị say mê bởi cái không gian mênh mông không ai có quyền sở hữu này.Ông ăn khi đói. Ông chọn những hoa quả có vị thơm nhất trong rừng, không thèm ăn những con cá mà ông thấy chúng bơi chậm chạp. Ông lần theo dấu thú rừng, và việc săn chúng bằng phi tiêu làm cho ông tăng gấp đôi sự ngon miệng.Buổi tối, nếu muốn ở một mình, ông trú trong bụng thuyền độc mộc. Ngược lại nếu cần có bạn, ông sẽ đi tìm những người Shuars. Họ đón tiếp ông rất hào phóng. Họ chia sẻ đồ ăn, thuốc lá với ông rồi hai bên cùng nhau tán chuyện hàng giờ liền, vừa nói vừa khạc nhổ xung quanh bếp lửa bập bùng chiếu sáng.— Anh thấy chúng tôi thế nào? — Họ hỏi.— Dễ thương như một bầy khỉ ouistisis, lắm mồm như những con vẹt say và to mồm gào rú như quỷ sứ.Những người thổ dân đón nhận những so sánh ấy bằng những tiếng cười rộn vang, và thể hiện sự đồng tình của họ bằng những tiếng hú chói tai.— Còn ở trên kia, nơi quê hương của anh, thì sao?— Rất lạnh. Buổi sáng và buổi tối lạnh như băng. Người ta phải quấn poncho [2] làm bằng len và đội mũ.—Vì thế mà người nào cũng bốc mùi hôi thối. Bởi khi đi ị người ta để dính phân vào nó.—Không phải, tất nhiên có trường hợp như thế, nhưng vấn đề là trời lạnh, nên người ta không thể đi tắm bất cứ lúc nào như mọi người ở đây.— Khỉ ở trên đó, chúng cũng mặc poncho?— Trên cao nguyên không có khỉ, cũng không có lợn rừng khoang. Dân trên núi không biết đi săn.— Thế họ ăn gì?— Ăn những gì họ có. Khoai tây, ngô tẻ, thỉnh thoảng có thịt lợn hoặc gà vào ngày lễ, hay thịt chuột lang vào những hôm chợ phiên.— Vậy họ làm gì nếu không đi săn?— Họ làm ruộng từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn.— Những thằng ngốc, đúng là những thằng ngốc. — Những người thổ dân Shuars kết luận.Ông ở đây được 5 năm trước khi ông hiểu rằng mình sẽ chẳng bao giờ rời khỏi xứ này. Hai vết răng cắn đã báo cho ông cái tin bí mật ấy.Ông học cách người Shuars đi rừng, bằng cách áp sát hai bàn chân lên mặt đất. Mắt và tai chăm chú lắng nghe những tiếng thì thầm của rừng, con dao quắm luôn sẵn sàng trong tay. Một hôm, trong một phút lơ đãng, ông cắm con dao xuống đất để rảnh tay hái một chùm quả. Đúng lúc cúi xuống cầm lại dao, ông cảm thấy hai cái nanh nhọn rát bỏng của một con rắn đuôi chuông cắm vào cổ tay phải.Ông nhận ra con rắn, nó dài khoảng một mét, đang trườn ra xa, để lại trên mặt đất những hình chữ X, vì thế người ta gọi nó là rắn ích xì. Ông phản ứng thật nhanh giơ dao nhẩy theo nó. Ông còn kịp băm nó thành mảnh nhỏ, trước khi nọc độc phủ một bức mành làm ông mờ mắt.Lấy tay dò dẫm, ông tìm được đầu con rắn. Cảm thấy sự sống đang rời bỏ mình, ông đi tìm một gia đình người Shuars. Những người thổ dân nhìn thấy ông lảo đảo đi tới, không còn khả năng để nói, bởi lưỡi, chân tay, và cả thân thể đã sưng phồng lên quá cỡ. Ông cảm thấy mình như sắp nổ tung ra. Ông chỉ kịp giơ cái đầu rắn lên trước khi ngã xuống bất tỉnh nhân sự.Hai ngày sau, ông tỉnh dậy, thân thể còn sưng tấy, người run lẩy bẩy từ đầu tới chân giữa hai cơn sốt. Cách chạy chữa truyền thống của một thầy mo giúp ông hồi phục sức khoẻ một cách chậm chạp.Thuốc bằng lá rừng làm tiêu nọc độc. Những lần tắm khô, vùi mình trong tro lạnh, làm giảm những cơn sốt cùng những cơn ác mộng. Một chế độ ăn uống với óc, gan, và cật khỉ giúp ông có thể đứng lên đi lại sau 3 tuần.Trong suốt thời gian dưỡng bệnh, người ta cấm ông không được đi xa khỏi nhà. Những người đàn bà tỏ ra rất cương quyết trong việc thi hành chế độ điều trị nhằm làm sạch nọc độc trong cơ thể ông.— Mày đang còn chất độc trong người. Phải bắt nó tiêu đi hết, chỉ để lại một chút để nó giúp mày chống lại những vết cắn mới.Họ nhồi ông ăn nhiều thứ quả mọng nước, uống nước đun với các loại lá rừng và nhiều thứ nước uống khác để lợi tiểu.Khi thấy ông đã hoàn toàn bình phục, những người thổ dân vây quanh ông, phủ đầy lên người ông quà tặng: một ống phi tiêu mới, một ống tên mới, một vòng trang sức bằng đá suối, một dây chão tết bằng lông phượng hoàng đất. Họ vỗ lên vai ra hiệu cho ông hiểu rằng ông vừa trải qua một thử thách để được chấp nhận. Một thử thách hoàn toàn phụ thuộc vào những vị thần tinh nghịch, những vị thần bé nhỏ hay trốn mình trong đám bọ dừa hay trong những tổ sâu mỡ màng, khi họ muốn đùa giỡn với số phận con người. Cũng có khi họ biến thành những vì sao để chỉ lạc đường trong rừng.Những người thổ dân vẽ lên người ông những màu sặc sỡ như da trăn và mời ông cùng nhảy với họ.Ông là một trong số rất ít người thoát chết khi bị rắn đuôi chuông cắn, vì thế phải cúng lễ một cách trân trọng để tạ ơn vào ngày hội rắn.Lúc tàn đám, lần đầu tiên ông được uống natema, một thứ rượu gây ảo giác như thuốc phiện, được làm bằng cách nấu những rễ cây yahuasca. Sau đó trong cơn mơ, ông cảm thấy mình như một bộ phận không thể tách rời của cái không gian luôn biến hoá này, giống như một sợi lông mọc thêm trên một thân thể khổng lồ có mầu xanh bất tận. Ông thấy mình suy nghĩ và cảm nhận như một người Shuars, rồi với thân thể được tô vẽ như một thợ săn Shuars giầu kinh nghiệm, ông đang lần theo dấu vết một con thú mà ông không thể mô tả nổi nó. Nó không có hình dáng, không có da thịt, không có mùi vị, không gây tiếng động, nhưng lại có đôi mắt mầu vàng rực. Đấy là một dấu hiệu không thể giải thích được. Điềm ấy ra lệnh cho ông ở lại và ông sẽ ở lại.Sau đó rất lâu, ông tìm được một người bạn. Nushino, một thổ dân Shuars, lưu lạc đến đây từ một nơi rất xa. Xa đến mức những lời miêu tả vùng đất ấy bị lẫn tới những ngã sông Maranon, ở tận trung lưu dòng sông Amazon. Nushino tới đây vào một ngày đẹp trời. Anh bị thương bởi một viên đạn bắn vào lưng, kỷ niệm để lại của một cuộc thám hiểm văn minh, do quân đội Peru tiến hành. Những người thổ dân tìm thấy anh bất tỉnh, gần như kiệt máu, sau nhiều ngày trôi dạt trên một chiếc thuyền độc mộc.Antonio và Nushino đi cùng nhau khắp rừng. Nushino khoẻ mạnh, eo lưng hẹp với đôi vai rộng. Anh dám bơi thi cùng cá heo trên sông và tính tình lúc nào cũng vui vẻ.Người ta nhìn thấy họ lần theo dấu những con thú lớn, phân tích mầu phân của nó, đến khi họ chắc chắn có thể bắt được nó, Antonio sẽ nấp trong bụi cây, còn Nashino xua con thú khỏi bụi rậm, bắt nó chạy về phía bạn mình, nơi nó sẽ đón nhận những ngọn lao tẩm thuốc độc.Cũng có lúc hai người săn một con lợn rừng để bán cho dân khai hoang. Tiền kiếm được giúp họ mua dao rừng mới hay một túi muối.Khi Antonio không đi săn cùng người bạn của mình, ông đi bắt rắn độc. Ông biết cách tới gần chúng, huýt sáo với những âm thanh chói tai khiến chúng mất phương hướng. Thế rồi với một cánh tay của mình, ông lặp lại những cử động của con rắn, khiến chúng bị thôi miên, bắt chước các cử động của ông. Đấy là lúc với với cánh tay kia, ông bất ngờ chộp lấy chúng từ đằng sau cổ, bắt chúng phải nhả nọc độc vào một cái bát làm bằng nửa quả bầu rỗng.Khi chúng đã chịu nhả đến giọt nọc cuối cùng, lúc con rắn duỗi đờ người ra vì mệt mỏi, không cuộn tròn được nữa, cũng chẳng còn sức để phản xạ, hoặc chúng hiểu rằng mọi sự chống trả đều vô ích, lúc này Antonio vứt chúng vào đám lá, với một thái độ khinh miệt.Nọc rắn bán được giá. Một năm hai lần, một nhân viên cửa hãng dược phẩm, nơi người ta pha chế, sản xuất các thuốc giải độc, ghé qua đây thu mua những bình nọc rắn nguy hiểm đó.Cũng có lần, con rắn nhanh hơn ông, nhưng điều đó chẳng ảnh hưởng gì. Ông hiểu rằng ông sẽ sưng phồng lên như một con cóc, mê sảng trong cơn sốt cao một vài ngày, nhưng không còn gì là nguy hiểm nữa. Ông đã có kháng thể, và có thể kiêu hãnh trước những người dân khai hoang, bằng cách chìa cho họ xem hai bắp tay phủ đầy những vết sẹo.Cuộc sống trong rừng đã tôi luyện từng xăng-ti-mét trên người ông. Ông đã có được những bắp thịt giống như loài thú ăn thịt, càng ngày càng săn chắc theo năm tháng. Ông hiểu rừng không kém gì người Shuars. Ông cũng bơi tốt như người Shuars, Ông biết cách tìm vết thú rừng như một người Shuars. Ông giống như một người thổ dân, nhưng không phải là thổ dân.Chính vì thế, ông bắt buộc phải vắng mặt thường xuyên. Những người thổ dân giải thích cho ông, đó là một điều tốt khi ông không phải là một người của họ. Họ thích gặp ông. Họ thích nói chuyện cùng ông, nhưng họ cũng muốn có cảm giác vắng mặt ông, cảm giác buồn không thể nói chuyện được với ông, cảm giác vui sướng khi hai bên gặp lại nhau mỗi khi ông quay trở về.Mưa rồi nắng, các mùa thay phiên nối tiếp nhau. Cùng với thời gian, ông dần biết được những tục lệ và bí mật của bộ tộc này. Ông tham gia vào những lễ cúng hàng ngày dành cho những cái sọ người được phơi khô, làm bé quắt lại. Những cái sọ của kẻ thù hay của những chiến binh trong quá khứ. Ông cùng hát với họ những lời cầu nguyện để tạ ơn chúng đã truyền lại cho người ta lòng dũng cảm, hoặc cầu mong cho bộ tộc có một cuộc sống yên ổn lâu dài.Ông tham dự những bữa cỗ hào phóng được các già làng ban cho. Những người quyết định giờ ra đi của họ đã điểm, khi họ đã ngủ thiếp đi dưới tác dụng của chicha [3] và natema trong một giấc mơ sung sướng đê mê. Những giấc mơ mở cửa cho họ đến một cuộc đời mới. Ông giúp mọi người mang họ vào trong một túp lều gỗ nằm sâu ở trong rừng rồi tẩm mật cọ lên người họ.Hôm sau, vừa hát những lời cầu nguyện để đưa tiễn những già làng vào một kiếp mới, của loài cá, của loài bướm, hay các loài thú thông thái khác, ông giúp mọi người nhặt những mẩu xương trắng đã được một bàn tay vô hình cọ rửa sạch sẽ. Đây là những thứ vô ích mà người già để lại khi họ ra đi, những thứ mà những cái càng dịu dàng của kiến rừng không mang đi được.Chừng nào ông còn sống với những thổ dân Shuars, ông không có nhu cầu đọc tiểu thuyết để biết đến tình yêu.Ông không phải là một người của bọn họ, vì thế ông không thể lấy vợ. Nhưng ông cũng giống như họ, và vì điều ấy mà người đàn ông Shuars cho ông ở cùng trong mùa mưa đã yêu cầu ông nhận lấy một trong những người vợ của mình, vì danh dự của gia đình và dòng họ.Người phụ nữ dẫn ông ra bờ sông. Cô ta vừa tắm, vừa trang điểm, rồi xức nước thơm cho ông, vừa cất giọng hát những bài anents. Rồi họ quay về túp lều, cùng nhau làm tình trên một manh chiếu. Được sưởi ấm bởi bếp lửa, họ không ngừng ngân nga những bài anents. Đó là những bài trường ca dài, được kể bằng giọng mũi, mô tả vẻ đẹp của thân thể cùng những sự sung sướng khoái lạc mà sự bí hiểm của ngôn ngữ làm tăng nó lên đến vô tận.Đó là một tình yêu thật cao thượng, không có mục đích nào khác ngoài tình yêu dành cho tình yêu. Không có sự sở hữu và ghen tuông.— Không một ai có thể giữ được tia chớp ở trên trời, không có ai có thể chiếm đoạt hạnh phúc của người khác vào thời điểm ngất ngây.Đấy là điều mà người bạn của ông, Nushimo giải thích.Khi nhìn dòng sông Nangaritza mãi mãi chẩy xuôi, người ta có thể nghĩ rằng thời gian đã quên đi vùng rừng Amazon xa xôi này. Nhưng chỉ những loài chim mới biết. Từ phía tây, những cái lưỡi hung dữ, cường bạo, đang tiến dần vào, sục sạo trên thân thể của rừng già.Những cái máy khổng lồ mở ra những con đường, và người Shuars bắt buộc phải du cư nhiều hơn. Họ không thể định cư ở một nơi quá ba năm trước khi du cư đến nơi khác, để rừng tự hồi sinh, như ngày xưa. Bây giờ mỗi khi đổi mùa, họ dỡ những túp lều của mình, gói hài cốt của tổ tiên lại, mang chúng đi xa, lẩn tránh những người xa lạ đến định cư trên bờ sông Nangaritza.Những người khai hoang, bị hấp dẫn bởi những lời hứa hẹn về tiềm năng chăn nuôi và khai thác rừng, đến càng ngày càng nhiều hơn. Họ mang theo rượu mạnh, thứ nước uống không cần làm lễ tế, và cứ thế làm tha hoá những kẻ yếu đuối. Nguy hiểm hơn nữa là những kẻ tìm vàng. Chúng lan truyền như một bệnh dịch tả. Một loại người thô bạo, ích kỷ, bất chấp luật lệ. Chúng đến từ khắp mọi nơi không ngoài mục đích làm giàu nhanh chóng.Những người Shuars di cư dần về phía Đông. Họ tìm đến những nơi kín đáo nhất không lối vào của rừng già.Một buổi sáng, Antonio José Bolivar đã bắn trượt phi tiêu, ông hiểu ông cũng đã già. Với ông cũng vậy, giờ phút ra đi cũng tới gần.Ông đã quyết định định cư ở làng El Idilio, và sinh sống bằng săn bắn. Ông không thể tự quyết định cho mình giờ phút của cái chết, để cho kiến rừng ăn xác mình. Ngay cả khi chuyện đó có xẩy ra, nó sẽ là một ngày lễ buồn.Ông giống như những người thổ dân, nhưng không phải là họ. Sẽ không có lễ hội dành cho ông, không có ăn uống, không có thứ nước diệu kỳ để người ta ra đi trong đê mê.Một hôm, khi ông đang bận đẽo một con thuyền mới mà ông muốn đóng nó chắc chắn nhất để có thể vượt được mọi trở ngại trên sông, chợt ông nghe thấy một tiếng nổ vọng tới từ phía một nhánh sông. Đấy là điềm báo hiệu sự ra đi của ông.Ông chạy tới địa điểm phát ra tiếng nổ, và nhìn thấy một đám người thổ dân đang khóc lóc. Họ chỉ cho ông một đám cá chết nổi lềnh bềnh trên sông, cùng một nhóm người lạ đang chĩa súng về phía họ.Đó là một nhóm năm người phiêu lưu đi tìm vàng. Họ đã dùng thuốc nổ phá cái đập giữ cá để mở lối đi trên sông.Tất cả đã xẩy ra rất nhanh, vì hoảng sợ khi thấy những người Shuars xuất hiện, những người da trắng đã nổ súng bắn hai người thổ dân, rồi bỏ chạy bằng thuyền của mình.Ông biết rằng những người da trắng sẽ không có đường thoát. Những người thổ dân đã đuổi theo họ bằng một lối tắt, rình ở một nơi mà dòng sông rất hẹp, để những ngọn giáo tẩm thuốc độc có thể với tới dễ dàng những con mồi của họ. Mặc dù vậy, một người da trắng đã kịp nhảy xuống nước, bơi sang bờ đối diện rồi biến mất vào trong rừng.Đầu tiên phải chăm sóc những người bị thương. Một người đã chết, đầu bị bắn nát bét bởi một họng súng chĩa thẳng vào mặt. Một người khác đang hấp hối, lồng ngực vỡ toang, đó là bạn của ông, Nushimo.— Thật là một cách ra đi tồi tệ. — Nushimo thở hổn hển, mặt nhăn lại vì đau đớn, cánh tay run rẩy chỉ vào bát thuốc độc. — Người anh em. Tôi sẽ không yên nghỉ được, chừng nào cái đầu của kẻ đó không được treo lên cây cột nhà, tôi sẽ ra đi buồn bã như một con vẹt mù đập đầu và cành cây, hãy giúp tôi, người anh em.Những người Shuars vây quanh ông. Ông là người duy nhất thông thạo phong tục của người da trắng. Những lời yếu ớt của Nushimo nói với ông rằng giờ đã đến lúc ông phải trả nợ, món nợ ông đã vay khi họ cứu ông khỏi nanh vuốt của rắn độc.Điều đó có vẻ như công bằng, ông mang theo một ống phi tiêu làm vũ khí, bắt đầu một cuộc săn người đầu tiên của mình.Ông chẳng khó khăn gì tìm ra hắn. Trong cơn tuyệt vọng, kẻ đi tìm vàng đã để lại những dấu vết rõ ràng đến nỗi chẳng cần tìm kiếm.— Tại sao mày lại làm thế? Tại sao mày lại bắn nó?Người kia chĩa họng súng về phía ông.— Bọn mọi rợ, bọn mọi rợ, chúng ở đâu?— Ở bên bờ bên kia, họ không đuổi theo mày đâu.Thở phào nhẹ nhõm, hắn hạ súng xuống, Antonio nhân dịp đó bắn cho hắn một mũi tên bằng ống phi tiêu của mình.Hắn ta bị thương, lảo đảo nhưng không ngã. Không còn cách nào khác là đánh nhau tay không. Hắn rất khoẻ, nhưng ông cũng giật được khẩu súng ra khỏi tay hắn. Ông chưa bao giờ dùng súng, nhưng khi nhìn thấy hắn sờ soạng để tìm con dao, ông không ngần ngại bóp cò, tiếng nổ làm xôn sao những bầy chim rừng hoảng sợ.Ngạc nhiên về hiệu quả của phát súng, ông xáp tới gần kẻ xấu số. Hắn nhận đủ hai viên đạn vào giữa bụng, quằn quại trong đau đớn. Không quan tâm tới những tiếng rên la, ông nắm cổ chân hắn kéo ra phía bờ sông. Ngay từ quãng đường đầu tiên, ông nhận thấy kẻ bất hạnh đã tắt thở.Những người thổ dân chờ ông bên bờ bên kia. Họ giúp ông kéo cái xác khỏi mặt nước, nhưng khi nhìn thấy cái xác chết, họ bắt đầu những lời than khóc mà ông không thể giải thích nổi.Họ không khóc vì kẻ lạ mặt mà họ khóc vì Nushino.Antonio José Bolivar không phải là một người như bọn họ, nhưng cũng là một người như bọn họ. Chính vì thế, ông phải giết kẻ thù bằng một mũi lao tẩm thuốc độc sau khi đã cho phép đối thủ của mình được chống trả một cách dũng cảm. Bị tê liệt dần dần bởi chất độc, tất cả thần khí của hắn ta sẽ được ghi lại trong nét mặt, để rồi sau đó được giữ lại mãi mãi trong cái đầu bị cắt ra phơi khô và làm nhỏ lại. Mồm, mí mắt, lỗ mũi, sẽ bị khâu lại, để cho thần khí dũng cảm của kẻ thù không thoát đi được.Nhưng làm thế nào để phơi khô cái đầu hắn bây giờ, khi tất cả tinh thần của hắn đã thoát đi trong những nét mặt nhăn nhó vì sợ hãi và đau đớn.Vì lỗi đó mà Nushino không thể siêu thoát. Nushino sẽ lẩn quẩn ở lại trong rừng già, như một con vẹt mù vỗ cánh bay đập mình vào cành cây. Anh sẽ gây nên sự thù hận của mọi người dù họ không biết anh là ai, khi hồn anh đập vào người họ. Anh sẽ làm rối loạn giấc mơ của những con trăn đang ngủ, xua đuổi thú rừng đi mất bởi hồn anh bay lởn vởn không mục đích.Ông đã tự làm mình mất hết danh dự, bởi chính ông phải chịu trách nhiệm về nỗi bất hạnh vĩnh cửu của người bạn mình.Không ngừng khóc, những người thổ dân ôm hôn ông, họ giành cho ông cái thuyền độc mộc tốt nhất, chất đầy lương thực lên thuyền cho ông và họ nói từ giờ phút này, ông không còn được chấp nhận. Ông có thể đi qua nhà họ, nhưng không được dừng lại.Những người da đỏ đẩy cái thuyền ra sông, rồi xoá đi những dấu vết còn lại trên cát.

Chương 4

Sau năm ngày lênh đênh trên sông, Antonio José Bolivar tới được làng El Idilio. Khung cảnh làng có những thay đổi. Đối diện với dòng sông có khoảng hai chục nóc nhà, nối nhau thành một dãy. Nhà cuối cùng to nhất, được đóng một tấm biển phía trên cửa với một dòng chữ sơn màu vàng “Tòa thị chính”. Làng El Idilio cũng đã có bờ kè bằng gỗ, nơi ông tránh không cập bến. Ông xuôi theo dòng nước, cho đến khi mệt mỏi mới cập thuyền vào bờ. Đó là nơi ông dựng căn nhà để ở bây giờ.Lúc đầu, khi nhìn thấy ông đi vào rừng với một khẩu súng Remington ca-líp 14, đồ thừa kế duy nhất của người mà ông đã giết, không những thế còn giết một cách tồi tệ, dân chúng coi ông như một người man rợ nên lảng tránh. Nhưng rất nhanh chóng sau đó, họ phát hiện ra sự may mắn do việc ông xuất hiện mang lại.Dân khai hoang và dân đi tìm vàng đã phạm vào những sai lầm ngu xuẩn ở trong rừng. Họ tàn phá mọi thứ không đếm xỉa tới bất cứ điều gì. Chính vì thế mà một số loài thú trở nên hung dữ.Để có được vài mét đất, họ phá rừng vô tổ chức, làm cho diều hâu không còn chỗ trú. Chúng trả thù lại bằng cách cắn chết lừa của họ. Họ săn lợn rừng khoang vào mùa sinh sản. Việc này đã biến những con lợn con thành những con quỷ dữ. Không kể sự xuất hiện của những thằng Mỹ mò tới từ những mỏ khai thác dầu.Chúng chia thành từng nhóm đi ầm ĩ vào rừng, súng đạn đủ có thể trang bị cho một tiểu đoàn. Chúng sẵn sàng bắn vào tất cả những gì cử động được. Chúng bám riết theo những con báo, không cần biết đó là những con báo con hay báo cái đang có bầu, để sau đó chúng sẽ đứng chụp ảnh trước mấy chục bộ da được đóng đinh treo lên một tấm ván trước khi bỏ đi.Những thằng Mỹ ra đi, còn những bộ da ở lại bốc mùi hôi thối cho đến lúc một bàn tay nhân từ nào đó gỡ chúng ra vứt xuống dòng nước. Những con báo sống sót trả thù lại bằng cách moi ruột những con bò đói giơ xương của dân khai hoang.Antonio José Bolivar tìm cách hạn chế sự phá hoại của dân khai hoang. Họ phá hoại rừng để dựng nên tác phẩm chủ yếu của loài người văn minh: những sa mạc chết.Rồi thú rừng càng ngày càng hiếm hơn. Những loài sống sót trở nên khôn ngoan hơn. Cũng như người Shuars, chúng trốn sâu vào rừng trong một cuộc thiên di không ai ngăn cản được về miền đông Amazon.Đã có tất cả thời gian dành riêng cho mình, Antonio José Bolivar Proano phát hiện ra ông biết đọc đúng lúc răng của ông bắt đầu hỏng.Chúng bắt đầu làm cho ông bận tâm khi ông cảm thấy mồm mình có mùi hôi, và có những cơn đau âm ỉ trong lợi.Ông thường tham gia vào những buổi khám bệnh nửa năm một lần của bác sĩ Loachamín, nhưng không bao giờ ông tưởng tượng nổi chính mình sẽ ngồi trên ghế. Cho đến một ngày những cơn đau trở trở nên dữ dội không thể chịu nổi, bắt buộc ông phải leo lên ngồi trên cái ghế của bác sĩ.— Đơn giản thôi bác sĩ. Tôi cũng chẳng còn bao nhiêu cái răng. Tôi đã tự nhổ những cái gây quá nhiều phiền toái cho mình, nhưng không nhổ được những cái nằm sâu bên trong. Nó quá khó. Vậy bác sĩ cứ tự nhiên vặt sạch chúng cho tôi, sau đó chúng ta sẽ nói chuyện với nhau về giá cả của những hàm răng giả đẹp đẽ kia.Lần ấy, tầu Sucre mang đến hai nhân viên của chính phủ. Họ ngồi sau cái bàn trước cổng nhà thị chính. Điều đó làm cho dân chúng nghĩ họ là những nhân viên đến phụ thu thuế.Trước sự thờ ơ của dân chúng, xã trưởng bắt buộc phải kêu gọi đến nghĩa vụ công dân còn lại ít ỏi trong ý thức họ để lôi những người lần chần đến trước cái bàn của chính phủ. Hai nhân viên được gửi đến mặt mũi sa sầm, họ có nhiệm vụ ngồi thu những lá phiếu của công dân làng El Idilio cho cuộc bầu cử tổng thống sẽ được tổ chức vào tháng tới.Antonio cũng phải trình diện trước bàn như tất cả mọi người.— Anh biết đọc không? — Người ta hỏi ông.— Tôi cũng không nhớ nữa.— Để thử xem, ông thấy chữ gì viết ở trên kia?— n-g-à-i t-ổ-n-g t-h-ố-n-g, ứ-n-g c-ử v-i-ê-n.— Rất tốt, ông thấy không, ông có quyền bầu cử.— Quyền về cái gì?— Quyền bầu cử, trong một cuộc bầu cử bỏ phiếu kín và trực tiếp, để chọn lựa một cách dân chủ một trong ba ứng cử viên xem người nào sẽ nhận chức vụ quan trọng tối cao của quốc gia. Ông hiểu không?— Tôi chẳng hiểu gì cả? Cái quyền này tốn bao nhiêu tiền?— Không mất xu nào. Bởi đó là một quyền lợi.— Thế tôi phải bầu cho người nào?— Bầu cho người sẽ là tổng thống. Cho ông tổng thống, ứng cử viên của nhân dân.Antonio bầu cho người thắng cử và nhận được một chai rượu Frontera là phần thưởng cho việc ông đã thực hiện nghĩa vụ công dân của mình.Ông biết đọc.Đấy là điều phát hiện quan trọng nhất của đời ông. Ông biết đọc. Ông đã sở hữu được thứ thuốc giải độc để chống lại những nọc độc của tuổi già. Ông biết đọc, nhưng ông chẳng có gì để đọc.Mặc dù không vừa ý, xã trưởng chấp nhận cho ông mượn mấy tờ báo cũ, mà ông ta giữ lại để phô ra trước mặt dân chúng giống như một bằng chứng về mối quan hệ đặc biệt của ông với chính quyền trung ương. Nhưng Antonio thấy chúng chẳng hấp dẫn gì cả.Những trích đoạn của bài diễn văn được đọc trước quốc hội, trong đó ngài dân biểu đáng kính Bucaram nói về một vị dân biểu khác cũng đáng kính như thế, rằng ông này không có cái gì trong đũng quần. Một bài báo khác kể chi tiết việc Artemio Mateluna đã giết người bạn tốt nhất của mình, bằng hai mươi nhát dao găm như thế nào. Một tin tố cáo sự kiêu ngạo cuồng loạn của những cổ động viên bóng đá đội Manta. Họ đã đánh chẩy máu trọng tài trên sân. Những điều đó không đủ sức khuyến khích ông tiếp tục đọc. Chúng xẩy ra trong một thế giới xa lạ, ông không có kiến thức giúp mình hiểu được ý nghĩa của những sự việc đó, chúng cũng chẳng có gì làm cho ông khao khát tưởng tượng.Một này đẹp trời, tàu Sucre ghé qua. Cùng với những két bia, thùng ga… là một linh mục bất hạnh được giáo hội gửi đến để rửa tội cho trẻ con và chấm dứt tệ nạn ăn ở với nhau không giá thú ở vùng này.Sau ba ngày, ông linh mục không gặp được người nào có ý muốn dẫn ông tới nhà những người khai hoang. Thất vọng bởi sự lạnh nhạt của những con chiên tương lai, ông ta ra ngồi chờ trên bờ sông đợi chuyến tàu tới mang mình đi. Để giết thời gian nóng nực, ông rút từ túi áo chùng thâm ra một quyển sách cũ và cố gắng đọc. Nhưng cơn buồn ngủ đã quật ngã ông.Quyển sách nằm trong tay thầy tu kích thích sự tò mò của Antonio José Bolivar. Ông già kiên nhẫn ngồi đợi ông thầy tu buồn ngủ gục xuống và làm rơi nó ra.Đó là một quyển sách viết về tiểu sử của thánh Francois, mà ông giở vội vàng giấu giếm từng trang với cảm giác như đang phạm một tội ác nào đó.Ông lẩm nhẩm từng chữ cái, thế rồi lòng khát khao muốn nắm bắt những gì chứa trong trang sách đã khiến ông đánh vần thầm thì những chữ mình đọc được.Ông thầy tu tỉnh dậy, quan sát, không giấu được vẻ thích thú khi thấy Antonio José Bolivar đang chúi mũi vào quyển sách.— Truyện có hay không? — Ông ta hỏi.— Xin lỗi cha, bởi vì cha ngủ nên con không muốn làm phiền.— Có hay không? — Cha cố hỏi lại.— Người ta có thể nói, đây là chuyện về những động vật — Ông trả lời một cách rụt rè.— Thánh Francois yêu các loài vật, và tất cả những gì tạo hóa đã sinh ra.— Con cũng vậy, theo cách của con. Cha quen thánh Francois?— Không, chúa không cho ta được biết tới niềm vui đó. Thánh Francois đã mất từ cách đây rất lâu. Ta muốn nói là ông đã từ bỏ cuộc sống trần thế này để về bên chúa hưởng cuộc sống vĩnh hằng.— Làm sao cha biết?— Bởi vì ta đọc sách. Đây là một trong những quyển mà ta ưa thích nhất.Cha cố nhấn mạnh những lời nói của mình bằng cách vuốt ve lên quyển sách đã sờn gáy. Antonio José Bolivar ngưỡng mộ chăm chú nghe, và cảm thấy những nanh vuốt của thèm khát đang cắn vào mình.— Cha chắc phải đọc nhiều sách?— Cũng kha khá. Trước đây, khi ta còn trẻ mắt còn tinh tường, ta nghiến ngấu tất cả mọi tác phẩm rơi vào tay mình.— Tất cả những quyển sách nói về các vị thánh?— Không, trên thế giới có hàng triệu hàng triệu quyển sách, bằng tất cả mọi thứ tiếng nói, chứa đựng tất cả mọi chủ đề, trong đó có cả những điều mà người ta không nên biết.Antonio José Bolivar không hiểu được vấn đề kiểm duyệt này. Ông tiếp tục chăm chú nhìn theo bàn tay cha cố. Bàn tay béo mập, trắng nõn, đặt ở trên bìa quyển sách màu đen.— Các quyển sách khác kể những gì?— Ta vừa nói với con, đủ thứ chuyện: thám hiểm, khoa học, cuộc đời của những thánh nhân, kỹ thuật, tình yêu…Cái điều cuối cùng làm ông chú ý. Tình yêu, ông chỉ biết qua những những bài hát. Đặc biệt là những pasillos được trình diễn bởi Julito Jaramillo, một giọng hát sinh ra từ những khu phố nghèo ở Guayaquil, tình cờ phát từ một cái đài chạy bằng pin khiến người ta buồn rầu xao xuyến. Những bài hát ấy kể rằng tình yêu giống như là một vết đốt của muỗi, chẳng có ai nhìn thấy nhưng tất cả đều tìm kiếm.— Nó như thế nào, những quyển sách nói về tình yêu?— Những quyển đó, ta sợ ta không thể nói được. Ta mới chỉ đọc một hai quyển.— Chẳng hề gì. Vậy nó thế nào?— À, chúng kể câu chuyện của hai người gặp nhau, yêu nhau, rồi đấu tranh để thắng những cản trở không cho họ hạnh phúc.Tiếng còi tàu Sucre thông báo nó sắp rời bến, Antonio không dám hỏi cha cố để lại cho ông quyển sách. Ngược lại, cha cố để lại cho ông lòng ham muốn đọc sách mãnh liệt hơn.Ông sống qua một mùa mưa, gặm nhấm tình cảnh buồn rầu của một người đọc không có sách, và lần đầu tiên trong đời ông cảm thấy cuộc sống của mình bị bao vây bởi một loài thú có tên là cô đơn. Một con thú tinh quái. Nó không từ một giây phút lơ đãng nào để mượn lấy tiếng nói ông, buộc tội ông bằng những bài phát biểu dài vô tận, trước một khoảng trống vắng không người nghe.Có cái gì thôi thúc ông đọc sách. Điều đó khiến ông phải đi khỏi làng El Idilio. Có thể không phải đi xa lắm, có thể ông chỉ cần tìm gặp một người nào đó ở El Dorado, một người sở hữu những quyển sách. Và ông nghĩ nát óc tìm cách thực hiện điều đó.Khi mùa mưa ngớt dần, khi các loài thú bắt đầu xuất hiện trong rừng, ông rời căn nhà của mình, cầm theo khẩu súng săn, mấy mét dây thừng và con dao đã được mài sắc. Ông đi rừng.Ông ở trong rừng khoảng hai tuần, trong khu vực có những loài thú mà người da trắng ưa thích. Trong vùng sinh sống của loài khỉ oustitis, nơi có những tàn cây cao rậm rạp, ông khoét rỗng ruột vài chục quả dừa để làm bẫy. Ông học được cách bẫy khỉ của người Shuars. Điều đó không khó. Chỉ cần người ta khoét vào quả dừa một cái lỗ rộng chừng hơn một ngón tay cái. Ở phía đối diện, đục một lỗ nhỏ, để luồn một sợi dây qua đó. Sợi dây được thắt nút chặt ở một đầu này, để không cho quả dừa có thể tụt ra. Phía đầu kia, ông buộc nó vào một thân cây, rồi bỏ mấy hòn sỏi nhỏ vào trong quả dừa đã rỗng. Ông vừa rời xa, thì những con khỉ, ngồi theo dõi ông từ trước trên cây cao, đã tụt xuống để tò mò xem có cái gì trong đó. Chúng cầm lấy, lắc lắc thử. Sau một hồi lúc lắc khi nghe thấy tiếng sỏi đập trong quả dừa, chúng sẽ thò tay vào để tìm cách lấy ra. Lúc cầm được một hòn sỏi trong tay, chúng không muốn bỏ ra và sẽ giẫy giụa một cách vô ích nhưng không thể nào rút tay ra được.Khi đã đặt xong bẫy khỉ, ông đi tìm một cây đu đủ cao. Loại cây mà người ta vẫn gọi một cách chính xác là đu đủ khỉ, bởi chỉ có bầy khỉ ouistitis mới có thể với tới những chùm quả chín nẫu dưới ánh mặt trời ngọt lừ, lúc lỉu như những vương miện treo trên ngọn cây.Ông rung gốc cây cho đến khi làm rụng được hai quả chín vàng thơm phức rồi nhét nó vào cái gùi đựng thú săn của mình.Sau đó ông đi đến chỗ sinh sống của các loài vẹt, của phượng hoàng đất. Ông tìm những bụi cây an toàn để tránh gặp thú dữ.Một day những thung lũng nối tiếp nhau dẫn ông tới một bãi cây bụi rậm rạp. Nơi định cư của ong rừng với những tổ ong bị phân chim làm bẩn. Khi ông xuất hiện, khu rừng đột nhiên im bặt cho đến tận mấy giờ sau, thời gian để cho những bầy chim làm quen với sự xuất hiện của ông.Ông làm hai cái lồng bằng mây rừng và những cành cây hoa giấy rồi đi tìm những thân cây Yahuasca. Ông giã nát quả đu đủ để trộn ruột đu đủ chín vàng lẫn với nhựa rễ cây được ông ép ra bằng chuôi dao rừng, rồi ông vừa hút thuốc vừa ngồi chờ cho chúng lên men. Ông nếm thử. Mồi trộn ngọt đậm. Vừa ý, ông cắm lều ở đầu suối và bắt cá để làm cơm tối.Ngày hôm sau, ông dậy sớm đi gỡ bẫy.Ở chỗ đặt bẫy khỉ, ông tìm thấy mấy chục con khỉ mệt mỏi vì cố sức giẫy giụa để rút bàn tay bị cầm tù trong ruột những quả dừa. Ông chọn ba cặp khỉ còn non, nhốt chúng vào lồng rồi thả những con còn lại.Ở nơi ông rải ruột đu đủ lên men, loài vẹt đuôi dài và đủ các loại chim bị say nằm la liệt trong mọi tư thế. Một số con cố gắng lảo đảo đi lại, một số khác cố gắng vỗ cánh một cách vụng về để bay.Ông bỏ vào lồng, một cặp guacayamos, đó là những con vẹt có lông xanh và vàng; một cặp ArasShapul, loài vẹt rất được ưa chuộng bởi khả năng bắt chước tiếng người, còn ông bỏ lại tất cả những con khác với ước mong chúng sẽ tỉnh dậy vô sự sau một giấc ngủ dài. Ông biết cơn say của chúng sẽ kéo dài vài ba ngày.Với món đồ săn được, ông trở về làng El Idilio và chờ đến lúc ê-kíp của tầu Sucre đã khuân hết hàng lên boong để lại gặp thuyền trưởng.— Tôi cần đi El Dorado, nhưng tôi không có tiền. Tôi là chỗ quen biết, ông hãy nhận tôi lên tầu, tôi sẽ trả tiền ông sau, khi tôi bán được thú rừng.Thuyền trưởng liếc mắt vào cái lồng rồi im lặng thọc tay vào bộ râu đã mấy ngày không cạo trước khi trả lời.— Ông để lại cho tôi một con vẹt non thay vào tiền vé. Đã từ lâu tôi đã hứa với con tôi.— Nếu ông đồng ý, tôi sẽ để lại cho ông một đôi để trả cả tiền vé về. Loài vẹt này chúng sẽ chết vì buồn bã nếu bị chia ly.Trên tầu, ông tán chuyện với bác sĩ Rubincondo Loachamín và nói với bác sĩ lý do về chuyến đi của mình. Bác sĩ lắng nghe với vẻ thích thú.— Nhưng nếu lão muốn có sách, tại sao lão không nhờ tôi? Tôi chắc chắn là có thể tìm được chúng ở Guayaquil.— Cám ơn bác sĩ. Vấn đề là ở chỗ lão chưa biết loại sách nào mình muốn đọc. Khi nào lão biết, lão sẽ nhớ tới lời hứa của bác sĩ.El Dorado chắc chắn không phải là một thành phố lớn. Ngưòi ta tìm thấy ở đó khoảng chừng trăm nóc nhà nối tiếp nhau trên bờ sông. Nó có tầm quan trọng bởi ở đây có một trạm cảnh sát, vài trụ sở hành chính, một nhà thờ, và một trường học phổ thông thưa thớt học sinh.Nhưng với Antonio José Bolivar, người mà cả 40 năm nay không rời khỏi rừng, nó có ý nghĩa là sự trở về với thế giới rộng lớn mà ông đã từng biết trước đó.Bác sĩ giới thiệu ông đến một người duy nhất có khả năng giúp đỡ ông. Đó là một thầy giáo, và ông cũng xin phép cho ông già được ngủ lại trong trường. Đó là một ngôi nhà lớn làm bằng tre, không có bếp. Đổi lại, ông già sẽ giúp việc làm bếp và sẽ đan giúp một cái gùi đựng cỏ.Khi ông già đã bán xong cặp khỉ và mấy con vẹt, người thầy giáo chỉ cho ông thư viện của trường.Ông cảm động khi được nhìn thấy một số lượng sách lớn như thế. Thầy giáo có khoảng năm chục đầu sách được xếp ngay ngắn trên một cái giá. Ông cảm thấy vui sướng không thể tả nổi, khi tự mình được ngắm nghía từng quyển sách một với cái kính lúp ông vừa mua được.Năm tháng liền ở đây đã giúp ông hình thành và hoàn thiện gu đọc sách của mình. Thời gian mà những sự lưỡng lự và những câu trả lời nối tiếp lẫn nhau.Khi lướt qua những quyển sách hình học, ông tự hỏi mình rằng điều đó có giá trị thực sự khiến người ta cần biết đọc không. Ông chỉ còn nhớ được một câu rất dài, mà ông hay mang nó ra nói lúc bực mình: “Trong một tam giác vuông, cạnh huyền là cạnh đối diện với góc vuông”.Về sau câu nói đó gây ra một ấn tượng mạnh tới mức, dân chúng ở làng El Idilio cảm nhận nó như một câu đố chữ vô nghĩa hay một lời chửi rủa tục tĩu.Những quyển sách về lịch sử gây cho ông cảm giác chúng là một chuỗi những điều giả dối. Có thể như thế được không? Những nhân vật đàn ông da nhợt nhạt, đeo găng trắng đến tận cùi tay, mặc quần bó sát vào đùi giống như những diễn viên xiếc lại là những người chiến thắng trên chiến trường? Chỉ cần nhìn những bộ tóc giả của họ được chải chuốt gọn gàng bay theo gió cũng đủ hiểu, những con người ấy không đủ sức để giết chết một con ruồi. Thế là những trang lịch sử được loại bỏ khỏi gu đọc sách của Antonio.Edmondo de Amicis và cuốn tiểu thuyết Trái tim đã chiếm hết một nửa thời gian của ông ở El Dorado. Đây mới thật sự là một câu chuyện. Quyển sách làm ông dán mắt vào nó, không thể rời tay. Nó làm ông quên đi sự mệt mỏi để kiên nhẫn đọc. Ông đọc nữa, đọc cho đến lúc ông tự nói với mình rằng không thể tồn tại trên đời một người có thể chịu đựng ngần ấy đau khổ mà vẫn bất hạnh. Đúng là phải sống như một thằng đểu cáng mới có thể tìm thấy sự vui sướng trong nỗi bất hạnh của một cậu bé khốn khổ như Lombard. Như vậy là, sau khi đã tìm kiếm trong tất cả đống sách của thư viện, ông đã chọn được những gì ông yêu thích thật sự.Cuốn Vòng nguyện cầu của Florence Barclay chứa đầy tình yêu. Vẫn là tình yêu, tình yêu cho mãi mãi. Những nhân vật đau khổ mà kiếp người của họ trộn lẫn sự sung sướng với bất hạnh có một sức truyền cảm lạ thường khiến cho cái kính lúp của ông đẫm nước mắt.Người thầy giáo không chia sẻ được với ông gu đọc sách đó, nên cho ông quyển sách ấy mang về làng El Idilio. Ông đã đọc đi đọc lại nó hàng trăm lần trước cửa sổ, cũng như bây giờ ông làm như thế với những cuốn tiểu thuyết do bác sĩ mang đến. Những cuốn sách nằm ngổn ngang trên mặt bàn, xa lạ với quá khứ hỗn độn của ông, quá khứ mà ông không muốn nhớ tới nữa. Ông muốn dành những khoảng trống khổng lồ trong trí nhớ để đón nhận những hạnh phúc và trắc trở của tình yêu vốn vĩnh cửu hơn cả thời gian.

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s

%d bloggers like this: