Phúc Lành Của Đất- Growth of the Soil (Chương 12)
Knut Hamsun
Giờ đây mọi thứ đều tốt đẹp.
Isak gieo yến mạch, bừa và vun đất. Bé Leopoldine tới và muốn ngồi lên cái trục bừa. Ngồi lên cái trục bừa ư? – Không, nó còn quá bé và chưa biết gì về việc đó. Các anh của nó hiểu biết hơn. Không có chỗ ngồi trên cái trục bừa của cha.
Nhưng người cha nghĩ thật là vui thích khi nhìn thấy bé Leopoldine đến với anh một cách tin cậy như thế; anh trò chuyện với nó, và chỉ nó cách đi thật khéo qua những cánh đồng, để đôi giày của nó không dính đầy đất.
“Đó là cái gì vậy? Sao chứ, nếu hôm nay con không mặc chiếc yếm màu xanh biển? Nào, đến cho cha xem; không, nó màu xanh biển, đúng là thế. Và một cái chuông tròn các thứ. Còn nhớ khi con đến trên con tàu lớn không? Và những thứ máy móc, con trông thấy chúng rồi chứ? Đúng thế, và bây giờ thì chạy về nhà với các anh của con đi, chúng sẽ tìm cho con thứ gì đó để chơi.”
Oline đã ra đi, và một lần nữa Inger thực hiện những công việc cũ của mình, trong nhà và ngoài sân. Có lẽ nàng đã hơi quá đáng trong việc giữ gìn sự sạch sẽ và trật tự, chỉ để chứng tỏ rằng giờ đây nàng sẽ thực hiện mọi việc theo cách khác. Và thật sự đó là một điều kỳ diệu khi nhìn thấy nàng đã tạo được một thay đổi lớn; ngay cả những tấm kính cửa sổ trong túp lều cũ cũng được lau sạch, và những cái hộp được dọn ra ngoài.
Nhưng đó chỉ là những ngày đầu tiên, tuần lễ đầu tiên; sau đó nàng bắt đầu ít hăm hở hơn trong công việc. Thật sự không cần thiết phải rước đủ mọi phiền toái về những chuồng bò các thứ; giờ đây nàng đã có cách sử dụng thời gian tốt hơn. Inger đã học được nhiều điều ở những người dân thị trấn, và sẽ rất đáng tiếc nếu không dùng đến chúng. Nàng lại lôi cái khung se sợi và khung cửi ra – đúng vậy, thậm chí nàng còn nhanh nhẹn và khéo léo hơn trước – hơi quá nhanh nhẹn – phải! – nhất là khi Isak đang nhìn nàng; anh không thể nghĩ ra làm sao mà một người nào đó có thể học cách sử dụng những ngón tay của mình theo cách đó – nàng có những ngón tay dài, đẹp so với đôi bàn tay to lớn. Nhưng Inger có một cách buông việc này bắt sang việc nọ ngay trong một lúc. Phải, phải, giờ đây có nhiều thứ để lo toan hơn trước, và có lẽ nàng không còn nhẫn nại như trước; một chút gì đó bồn chồn đã tìm được cách len lỏi vào đầu óc của nàng. Đầu tiên là những loài hoa mà nàng mang về – những củ và nhánh giâm; ngay cả những cuộc sống bé nhỏ này cũng cần được nghĩ tới. Cửa sổ quá nhỏ, gờ quá hẹp nên không thể đặt các chậu hoa lên đó, ngoài ra nàng cũng không có những chậu hoa. Isak phải chế ra những cái hộp tí hon cho những cụm hoa thu hải đường, hoa vân anh và hoa hồng. Thêm nữa, một cửa sổ thôi thì không đủ – hãy hình dung một căn phòng chỉ có một cửa sổ!
Và, “Ồ, nhân tiện,” Inger nói, “Tôi muốn có một cái bàn ủi, anh biết đó. Ở trại không có cái nào hết. Tôi có thể dùng một cái bàn ủi để ủi đồ khi may váy áo các thứ, anh không thể làm việc một cách chính xác mà không có một cái bàn ủi.”
Isak hứa sẽ nhờ người thợ rèn ở dưới làng làm một cái bàn ủi hạng nhất. Ồ, Isak sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì, làm tất cả những gì nàng yêu cầu bằng mọi giá; vì anh có thể thấy rất rõ rằng giờ đây Inger đã học hỏi được nhiều thứ và trở nên thông minh không ai sánh kịp. Nàng cũng nói theo một cách thức khác hẳn, văn hoa hơn, sử dụng những từ ngữ thanh lịch. Nàng không bao giờ hét gọi anh như trước: “Hãy tới mà ăn đi này!” Thay vì thế, nàng nói: “Bữa ăn tối đã sẵn sàng, nếu anh vui lòng.” Giờ đây mọi thứ đều khác hẳn. Hồi trước anh sẽ trả lời một cách đơn giản “Ừ” hoặc không nói gì hết, và tiếp tục làm việc một lát nữa mới vào. Bây giờ, anh nói “Cám ơn” và đi vào nhà ngay lập tức. Phải giờ đây mọi sự đã khác đi – có lẽ hơi tốt đẹp hơn chút ít theo nhiều cách. Khi Isak nói về phân súc vật một cách thô lỗ, theo kiểu nông dân, Inger sẽ gọi nó là phân bón, “vì lũ trẻ, anh biết đó.”
Nàng rất cẩn thận với các con, và dạy dỗ chúng mọi điều. Cho phép bé Leopoldine nhanh chóng làm quen với công việc thêu đan của nàng, và hai đứa con trai với việc viết và tới trường; chúng sẽ không chậm trễ khi tới lúc phải đi học ở dưới làng. Đặc biệt Eleseus đã trở nên một đứa trẻ thông minh, nhưng còn nhóc Sivert thì không có gì xuất sắc cho lắm, nếu phải nói sự thật – một đứa trẻ bốc đồng, liều lĩnh. Thậm chí nó còn mạo hiểm thử vặn ốc vít trên cái máy may của mẹ nó, và đã xẻo ra nhiều mảnh gỗ nhỏ từ bàn ghế với con dao nhíp của nó. Inger đã dọa sẽ lấy lại con dao.
Tất nhiên là lũ trẻ có tất cả những con vật trong trang trại, ngoài ra Eleseus vẫn còn giữ mẩu bút chì màu. Nó sử dụng cây bút rất thận trọng, và ít khi cho em trai nó mượn, vì theo thời gian, tất cả những bức tường đều phủ đầy những hình vẽ xanh đỏ, và mẩu bút chì ngày càng bé đi. Cuối cùng Eleseus buộc phải ấn định thời gian sử dụng của Sivert, chỉ cho mượn cây bút vào ngày Chủ nhật, và chỉ được vẽ một hình. Sivert không hài lòng với cách sắp xếp này, nhưng Eleseus là một người không dễ cự lại. Không khỏe hơn cho lắm, nhưng nó có đôi cánh tay dài hơn và có thể xoay xở tốt hơn khi chúng cãi cọ nhau.
Nhưng thằng bé Sivert đó! Thỉnh thoảng nó lại bắt gặp một tổ chim trong rừng; có lần nó nói về một các hang chuột mà nó tìm ra, và khoác lác đủ thứ về chuyện đó; lần khác thì một con cá to bằng cả một người đàn ông mà nó từng nhìn thấy ở ngoài sông. Nhưng rõ ràng tất cả đều do nó bịa ra; nó có khuynh hướng đổi đen thành trắng, nhưng là một đứa có năng khiếu về những thứ đó. Khi con mèo cái đẻ con, chính nó là người mang sữa tới cho con mèo, vì con mèo không ưa Eleseus lắm. Sivert không bao giờ mệt mỏi với việc đứng nhìn vào cái thùng đầy những chuyển động, một cái tổ của những bàn chân lông lá đang co quẫy.
Nó cũng chú ý hàng ngày tới đàn gà; con gà trống với dáng vẻ hống hách và bộ lông đẹp đẽ; những con gà mái thong thả dạo quanh và kêu cục cục, bới đất hoặc kêu cục tác om xòm như thể bị đau kinh khủng mỗi khi chúng đẻ trứng.
Có một con cừu thiến lớn. Nhóc Sivert đã đọc khá nhiều về giống vật mà nó từng biết trước đó, nhưng nó không thể nói rằng con cừu thiến có một cái mũi La Mã xinh đẹp, ôi Trời! Nó không thể nói điều đó. Nhưng nó có thể làm tốt hơn thế. Sivert biết con cừu thiến từ cái ngày nó còn là một con cừu non, nó hiểu con cừu thân thiện với nó – một người bà con, một tạo vật anh em. Có lần nọ, một ấn tượng nguyên sơ lạ lùng đã lóe lên trong đầu nó: đó là một khoảnh khắc mà nó không bao giờ quên được. Con cừu thiến đang lặng lẽ gặm cỏ trên đồng; đột nhiên nó ngóc cao đầu, ngưng nhai nhóp nhép, chỉ đơn giản đứng đó nhìn ra. Sivert bất giác nhìn theo về hướng đó. Không, không có gì đáng chú ý. Nhưng bản thân Sivert cảm nhận được có điều gì lạ lùng bên trong nó: “Gần như thể nó đang đứng nhìn vào vườn địa đàng,” nó nghĩ.
Và có những con bò cái – mỗi đứa trẻ có hai con – những con vật đồ sộ, thân thiện và thuần tính đến nỗi chúng để cho bạn chạm vào chúng bất cứ lúc nào bạn thích; cứ mặc cho lũ người trẻ con vỗ về chúng. Có một con heo, trắng và có tính cách riêng biệt khi được chăm sóc một cách tử tế, lắng nghe mọi âm thanh, một anh chàng vui nhộn, luôn háo hức với thức ăn, nhạy cảm với những cú cù và bồn chồn như một cô con gái. Và có một con dê đực. Ở Sellanraa luôn luôn có một con dê đực già, vì ngay khi con này chết đi đã có một con khác thay chỗ nó. Và có gì buồn cười để nhìn đâu cơ chứ? Ngay lúc này nó có cả một đàn dê để coi sóc, nhưng đôi khi bị ốm và thấy mệt mỏi với cả bầy, nó nằm xuống, một hình ảnh trầm tư, có râu, một người cha thật sự. Rồi trong khoảnh khắc nó lại vùng dậy và đuổi theo bầy. Nó luôn luôn để lại phía sau một làn không khí khai khai.
***
Vòng quay hàng ngày của trang trại cứ thế tiếp diễn. Thỉnh thoảng, một du khách đi ngang qua đó trên đường lên dãy đồi cất tiếng hỏi: “Mọi thứ ở đây thế nào với các bạn vậy?”
Và Isak đáp: “Ổn cả, cám ơn.”
Isak làm việc miệt mài, tham khảo cuốn niên lịch trong tất cả những gì anh thực hiện, ghi lại những thay đổi của mặt trăng, lưu ý tới những dấu hiệu của thời tiết và làm việc tiếp. Anh đã mở được một con đường xuống làng nên giờ đây anh có thể đánh xe xuống đó, nhưng đa phần anh vẫn tự mình vác đồ; vác những bao pho mát hoặc da thuộc, vỏ cây và nhựa thông, bơ và trứng; tất cả những gì anh có thể bán, để mang về những thứ hàng hóa khác. Không, vào mùa hè anh không thường đánh xe đi – vì một điều, chặng đường tính từ trại Breidablik, phần cuối của con đường, được duy trì quá tệ. Anh từng đề nghị Brede Olsen giúp nâng cấp con đường và thực hiện phần việc của y. Brede Olsen hứa nhưng không giữ lời. Và Isak sẽ không yêu cầu y thêm lần nữa. Thà là tự vác đồ trên vai mình còn hơn. Và Inger bảo: “Tôi không thể hiểu làm thế nào anh có thể xoay xở được tất cả những việc đó.” Ồ, nhưng anh có thể xoay xở được bất cứ thứ gì. Anh có một đôi ủng, nặng và dầy không thể tưởng, với những mảnh thép lớn dưới đế giày, cả những nút dây giày cũng được gia cố thêm với những đầu đinh bằng đồng – thật kỳ lạ khi một người có thể đi được với một đôi ủng như thế.
Trên đường xuống làng, anh bắt gặp nhiều toán người đang làm việc trên đồng; đang hạ những trụ đá và cố định những cột điện. Một số người trong bọn là dân làng, cả Brede Olsen cũng có mặt ở đó, bất chấp việc y đã mua mảnh đất riêng của mình và cần làm việc trên đó. Isak tự hỏi không biết Brede lấy đâu ra thời gian.
Viên đốc công hỏi Isak có thể bán cho họ những cột gỗ hay không. Isak nói không. Không dù anh sẽ được trả giá cao? – Không – Ồ, Isak đã trở nên nhanh nhạy hơn trong những cuộc thỏa thuận của mình, anh có thể nói không. Nếu anh bán cho họ vài cột gỗ, chắc chắn là trong túi anh sẽ có tiền, thêm rất nhiều Daler nữa, nhưng anh không có dư gỗ, chẳng kiếm chác được gì từ việc đó. Viên kỹ sư phụ trách đích thân tới để đề nghị, nhưng Isak từ chối.
“Chúng tôi có đủ cột,” viên kỹ sư nói, “nhưng lấy chúng từ chỗ đất của anh thì dễ dàng hơn, và tiết kiệm được tiền vận chuyển.”
“Tôi không có đủ gỗ cho chính mình,” Isak nói. “Tôi muốn lắp dựng một cái máy cưa và cưa xẻ các thứ; có một số công trình mà tôi cần có sớm.”
Tới đây Brede Olsen xen vào: “Nếu tôi là anh, tôi sẽ bán cột cho họ, Isak ạ.”
Với tất cả lòng kiên nhẫn, Isak nhìn y và nói: “Phải, tôi dám nói là anh sẽ bán.”
“Ờ, vậy thì sao?” Brede hỏi.
“Chỉ có vấn đề tôi không phải là anh,” Isak nói.
Nghe thấy câu này một vài người thợ cười khúc khích.
Phải, Isak có đủ lý do để làm người hàng xóm của anh phải ngậm miệng lại vào chính lúc ấy; ngay trong hôm ấy anh đã trông thấy ba con cừu trong những cánh đồng ở Breidablik, và anh biết một con trong số đó – con cừu có đôi tai bẹp mà Oline đã bán đổ bán tháo đi. Y có thể giữ nó, Isak nghĩ, khi tiếp tục đi; Brede và vợ y có thể có mọi con cừu họ muốn, đối với tôi!
Vụ việc cái máy cưa luôn nằm trong ý nghĩ của anh; đúng như anh đã nói. Mùa đông trước, khi những con đường còn cứng, anh đã chở lên đó cái lưỡi cưa tròn và những thứ phụ tùng, đặt hàng từ Trondhjem thông qua cửa tiệm dưới làng. Hiện giờ các bộ phận đang nằm trong một kho chứa đồ, được trét dầu cẩn thận để chống rỉ sét. Anh cũng đã mua một số xà để làm khung; anh có thể bắt đầu công việc nếu muốn nhưng anh hoãn nó lại. Vì sao vậy? Phải chăng anh bắt đầu trở nên uể oải, phải chăng anh đang nản lòng thoái chí Anh không thể tự hiểu được điều này. Có lẽ đối với những người khác việc này chẳng có gì đáng ngạc nhiên, nhưng Isak không thể tin được nó. Phải chăng đầu óc anh đã bỏ đi đâu? Anh chưa bao giờ sợ phải bắt tay làm một việc gì trước đó; vì lý do nào đó hẳn là anh đã đổi thay, kể từ thời điểm anh dựng cái cối xay ngang qua con sông, cũng to lớn chừng ấy. Anh có thể tìm sự giúp đỡ ở dưới làng, nhưng anh sẽ cố làm một mình lần nữa; anh sẽ khởi sự vào một ngày nào đó – và Inger có thể giúp anh một tay.
Anh nói với Inger về việc đó.
“Ừm, tôi không biết liệu cô có tìm ra thời gian trong những ngày này để giúp tôi làm cái máy cưa đó không?”
Inger suy nghĩ một lúc. “Vâng, nếu tôi có thể xoay xở được. Vậy là anh sắp dựng một cái máy cưa?”
“Phải, dự định của tôi là thế. Tôi đã tính toán tất cả trong đầu.”
“Nó có vất vả hơn việc dựng cái cối xay không?”
“Vất vả hơn nhiều, hơn gấp mười lần. Sao chứ, tất cả mọi thứ phải khít khao và chính xác, cho tới đường nét nhỏ nhất, và bản thân cái cưa máy phải nằm đúng ngay chính giữa.”
“Ước gì anh có thể xoay xở được,” Inger nói một cách trầm ngâm.
Isak bị xúc phạm, anh đáp, “Về chuyện đó, chúng ta sẽ chờ xem.”
“Anh không tìm được một người giúp anh sao, một ai đó biết việc?”
“Không.”
“Tốt, vậy thì anh sẽ không thể xoay xở được,” nàng lặp lại.
Isak đặt bàn tay lên tóc, như một con gấu đang nhấc bàn chân của nó lên.
“Tôi cũng đang sợ chuyện đó,” anh nói. “Sợ rằng tôi có thể không xoay xở được. Và đó là lý do vì sao tôi muốn một người hiểu biết nhiều như cô giúp tôi một tay.”
Nhưng rốt cuộc Isak không đạt được gì. Inger lắc đầu rồi quay mặt đi một cách tàn nhẫn, và sẽ không dính dáng gì tới cái cưa của anh.
“Vậy thì…” Isak nói.
“Sao, anh muốn tôi đứng ướt sũng dưới sông để giúp anh? Thế ai sẽ làm mọi công việc may vá, coi sóc gia súc và nhà cửa và mọi thứ còn lại?”
“Không ai cả, điều đó đúng,” Isak nói.
Ồ, anh chỉ cần sự giúp đỡ để dựng cột ở bốn góc và ở giữa cho hai cạnh sườn dài, chỉ thế thôi. Inger – có phải thật sự lòng dạ của nàng đã trở nên khác hẳn trong thời gian sống giữa những người dân thị trấn?
Thực tế là Inger đã thay đổi rất nhiều; bây giờ nàng nghĩ tới điều tốt đẹp chung của họ ít hơn là tới chính bản thân nàng. Nàng đã sử dụng lại cái khung se sợi và khung cửi, nhưng cái máy may hợp với nàng hơn; và khi cái bàn ủi đến từ chỗ người thợ rèn nàng đã sẵn sàng trở thành một người thợ may được đào tạo đầy đủ. Giờ đây nàng đã có một nghề nghiệp. Nàng bắt đầu bằng cách may một cặp váy yếm nhỏ cho Leopoldine. Isak nghĩ rằng chúng thật xinh xắn và khen ngợi chúng; Inger bóng gió rằng nó chẳng là gì so với những gì nàng có thể làm khi cố gắng.
“Nhưng chúng ngắn quá,” Isak nói.
“Ở thị trấn người ta ăn mặc theo cách đó,” Inger nói. “Anh chẳng biết gì về việc này đâu.”
Isak thấy rằng anh đã đi xa quá, và để đền bù, anh nói đôi điều về việc mua ít vải vóc cho chính Inger, và để may thứ này hoặc thứ khác.
“Để may một cái áo choàng?” Inger nói.
“Phải, hoặc thứ gì cô thích.”
Inger đồng ý có một thứ gì đó để may một tấm áo choàng, và mô tả loại vải mà nàng muốn. Nhưng khi đã may xong tấm áo choàng, nàng phải tìm ra ai đó để khoe nó; do đó, khi hai cậu bé xuống làng theo học, Inger đi cùng với chúng. Và có thể chuyến đi đó chỉ là một chuyện nhỏ nhặt, nhưng nó đã để lại dấu tích.
Đầu tiên họ tới trại Breidablik, và nữ chủ nhân Breidablik cùng con cái của chị ta ra ngoài để xem ai đang đi ngang qua. Inger và hai đứa bé ngồi đó trên xe, đang đi xuống một cách kiêu hãnh – hai cậu bé trên đường tới trường, chỉ có thế, và Inger khoác một chiếc áo choàng. Vợ chủ trại Breidablik cảm thấy nhoi nhói trước cảnh tượng đó; tấm áo choàng mà lẽ ra chị ta có thể thực hiện nếu không có – lạy Trời – chị ta không mở được cửa tiệm nào với sự ngu xuẩn như thế – nhưng… chị ta có lũ con của mình – Barbro, đã là một cô gái lớn, Helge, đứa kế, và Kathrine, tất cả đều ở tuổi đến trường. Hai đứa lớn đã từng đi học trước đó, khi họ còn sống dưới làng, nhưng sau khi dời lên Breidablik, lên một nơi xa xôi hẻo lánh giữa đồng không mông quạnh, họ buộc phải từ bỏ chuyện đó, và mặc cho bọn trẻ quay trở lại với cảnh dốt nát.
“Có lẽ chị muốn có một ít thức ăn cho hai cậu nhỏ,” người đàn bà nói.
“Thức ăn à? Chị có nhìn thấy cái rương ở đây không? Đó là cái rương du lịch của tôi mà tôi đã mang theo về nhà, tôi có đầy thức ăn trong đó.”
“Trong đó có loại gì thế?”
“Loại gì? Tôi có nhiều thịt và thịt heo, ngoài ra còn có bánh mì, bơ và pho mát.”
“Phải, ở trên Sellanraa chị không thiếu thứ gì,” người kia nói; và đàn con nghèo nàn, má hóp của chị ta tròn mắt vểnh tai lắng nghe cuộc trò chuyện về những thứ thức ăn dồi dào này. “Chúng sẽ ở đâu?” Người mẹ hỏi.
“Tại nhà của ông thợ rèn,” Inger đáp.
“Vậy sao!” người kia nói. “Phải, các con của tôi cũng sẽ sớm trở lại trường. Chúng sẽ ở tại nhà của ngài Lensmand.”
“Thế à!” Inger nói.
“Phải, hoặc ở nhà của ông bác sĩ, có lẽ, hoặc nhà của mục sư. Dĩ nhiên là Brede quen thân với những nhân vật lớn ở đó.”
Inger sờ soạng tấm áo choàng của mình, và tìm cách lật nó lên để một đường viền lụa đen hiện ra phía trước.
“Chị mua chiếc áo choàng này ở đâu thế?” Người đàn bà hỏi. “Có lẽ là từ một người từng ở với chị?”
“Tôi tự may lấy nó.”
“Phải, phải, đúng như tôi từng nói: Tài sản và giàu có đầy đủ tràn trề…”
Inger đánh xe đi tiếp, cảm thấy nở từng khúc ruột và hài lòng với chính mình, và, khi vào tới làng, có thể nàng đã hơi quá tự hào về dáng vẻ của mình.
Phu nhân Heyerdahl không hài lòng khi nhìn thấy tấm áo choàng đó; người đàn bà ở Sellanraa đang quên mất thân phận của mình – đang quên rằng cô ta đến từ đâu sau năm năm vắng nhà. Nhưng ít nhất Inger cũng đã có cơ hội khoe chiếc áo choàng, và vợ của ông thợ rèn cùng vợ của thầy giáo cứ nghĩ mãi tới việc có một chiếc áo như thế cho chính họ – nhưng việc này phải đợi một thời gian.
Và giờ đây Inger sớm bắt đầu có khách. Một hoặc hai phụ nữ đến từ mé kia dãy đồi vì tò mò. Có lẽ Oline đã có cơ hội nói đôi điều ngược với ý muốn của bà, với người này hay người nọ. Những người mới đến mang các tin tức từ nơi sinh trưởng của Inger; tự nhiên là Inger nên mời họ một cốc cà phê và cho họ ngắm nhìn cái máy may của nàng! Những cô gái trẻ đến từng đôi từ bờ biển, từ trong làng, để xin lời khuyên của Inger; bấy giờ đã là mùa thu, và họ đã dành dụm để may áo mới, thế nên họ muốn nàng giúp họ. Dĩ nhiên là Inger biết mọi thứ về các thời trang mới nhất, sau khi sống ở thế giới ngoài kia, và thỉnh thoảng nàng lại hơi át lời họ đôi chút. Bản thân nàng rạng rỡ và vui vẻ hẳn lên với những cuộc viếng thăm này; nàng cũng tỏ ra tốt bụng và sẵn lòng giúp đỡ, ngoài ra còn rất thông minh trong công việc; nàng có thể cắt vải mà không cần tới mẫu. Đôi khi nàng còn may trọn cả một chiếc váy dài trên chiếc máy của nàng, tất cả đều không lấy tiền công, và trao tấm áo lại cho các cô gái với một câu nói đùa vui vẻ: “Nào! Bây giờ các cô có thể tự mình đính nút nhé!”
Vào cuối năm Inger lại được mời xuống làng để may quần áo cho một số nhân vật lớn ở đó. Inger không thể đi; nàng có một ngôi nhà cần được chăm sóc, ngoài ra còn có cả một đàn gia súc, tất cả những công việc trong nhà, và nàng lại không có người giúp việc.
Không có cái gì? Người giúp việc!
Một hôm nàng nói với Isak:
“Giá như có ai đó giúp đỡ tôi, tôi có thể dành nhiều thời gian hơn cho việc may đồ.”
Isak không hiểu. “Giúp đỡ gì?”
“Vâng, giúp việc trong nhà, một người hầu gái.”
Hẳn Isak phải bước lùi về sau khi nghe thấy câu này; anh cười rộ một lát trong bộ râu kẽm của mình, và xem đó là một câu nói giỡn chơi. “Phải, chúng ta nên có một cô hầu gái.”
“Những bà nội trợ trong thị trấn luôn có một người hầu,” Inger nói.
“Thế sao!” Isak nói.
Chà, có lẽ ngay lúc ấy Isak không ở trong tâm trạng vui vẻ nhất, không chính xác là dịu dàng và hài lòng, không, vì anh đã bắt tay vào làm cái máy cưa, và đó là một công việc chậm chạp, vất vả; anh không thể một tay giữ những thanh xà, tay kia cầm cái ống li-vô, và cố định các đầu trong cùng một lúc. Nhưng khi hai đứa con trai quay về từ trường học, công việc dễ dàng hơn; hai đứa trẻ giúp ích được nhiều việc, cầu Chúa phù hộ chúng! Đặc biệt là Sivert, nó là một thiên tài trong việc đóng đinh, còn Eleseus thì khá hơn trong việc xử lý một đường thẳng. Tới cuối tuần đó, Isak và hai cậu bé đã thật sự dựng được những cột chính, được cố định chắc chắn với những mảnh nêm dày ngang với những thanh xà nhà.
Công việc đã được thực hiện tốt, theo cách nào đó mọi thứ đã được thực hiện tốt. Nhưng giờ đây Isak bắt đầu cảm thấy mệt mỏi khi chiều xuống – bất kể nó là gì. Không chỉ là việc dựng một cái máy cưa và hoàn thành nó – ngoài nó ra còn có mọi thứ khác. Cỏ khô đã đưa vào kho, nhưng lúa vẫn còn đứng đó, chẳng bao lâu sẽ phải cắt và chất đống chúng lại; lại còn khoai tây nữa, chúng cũng cần sớm được đào lên. Nhưng hai đứa trẻ là một sự giúp sức diệu kỳ. Anh không cám ơn chúng; đó không phải là cung cách giữa những người dân như họ; nhưng anh rất hài lòng với chúng về mọi chuyện. Thỉnh thoảng họ lại ngồi xuống giữa chỗ làm và trò chuyện với nhau, người cha gần như đề nghị các con cố vấn về việc họ sẽ làm gì kế tiếp. Đó là những giây phút tự hào đối với hai cậu bé. Chúng cũng đã học được cách suy nghĩ kỹ trước khi nói ra, để không phạm phải sai lầm.
“Thật tiếc vì không thể che mái được trước những trận mưa thu,” cha chúng nói.
Giá mà Inger vẫn giống như ngày cũ! Nhưng dường như Inger không còn khỏe như trước, và điều đó khá tự nhiên sau thời gian dài nàng bị nhốt giữa những bức tường. Nhưng việc cả tâm trí của nàng dường như cũng thay đổi mới là một vấn đề. Dường như giờ đây nàng trở nên xa lạ, ít suy nghĩ, ít quan tâm; lơ là, hời hợt – đây có phải là Inger không?
Một hôm nàng nói về đứa bé mà nàng đã giết chết.
“Tôi thật là ngu ngốc khi làm chuyện đó,” nàng nói. “Hẳn chúng ta có thể khâu cái miệng của nó lại, và tôi không cần phải bóp cổ nó.” Bây giờ nàng không bao giờ lẻn ra chỗ ngôi mộ bé xíu trong rừng, nơi trước đây nàng đã từng lấp đất với đôi tay của mình và dựng lên một cây thánh giá nhỏ.
Nhưng Inger chưa phải là hoàn toàn vô tâm; nàng vẫn quan tâm tới mấy đứa con còn lại, giữ cho chúng sạch sẽ và may áo mới cho chúng; nàng thường ngồi muộn lúc đêm về để vá đồ cho chúng. Tham vọng của nàng là được nhìn thấy chúng thành công trong đời.
Lúa đã được chất đống, và khoai đã được đào lên. Rồi mùa đông tới. Không, cái máy cưa chưa được che mái vào mùa thu ấy, nhưng nói cho cùng, đó là điều không thể tránh được, và đó không phải là vấn đề sống hay chết. Mùa hè tới sẽ có đủ thời gian và phương tiện.