Dưới ánh sao thu – Under the autumn star (III- IV-V)
Knut Hamsun
III
Grindhusen làm việc đôi ba giờ với vữa và sơn. Và chẳng bao lâu một mé của ngôi nhà nhỏ, phía bắc, nhìn ra biển, đã sáng một màu đỏ vui tươi. Vào lúc nghỉ trưa, tôi bước ra và tới gần anh, với chút gì để uống, và chúng tôi nằm lăn ra đất một lúc, chuyện gẫu và hút thuốc. “Thợ sơn? Không hẳn vậy, và đó là sự thật,” anh nói. “Nhưng nếu bất cứ một ai đi tới và hỏi tôi có thể sơn một bức tường không, sao chứ, dĩ nhiên là tôi có thể. Anh đã kiếm được thứ rượu Brændevin[2] loại nhất đấy.” Vợ và hai đứa con của anh sống cách đó chừng bốn dặm, và anh về thăm họ mỗi Thứ bảy. Ngoài ra còn có hai cô con gái, cả hai đã trưởng thành, và một cô đã lấy chồng. Grindhusen đã lên chức ông ngoại. Ngay sau khi sơn xong ngôi nhà của cụ Gunhild – nó đã được sơn hai lớp – anh sẽ tới nhà của ông mục sư để đào một cái giếng. Luôn luôn có loại công việc nào đó phải thực hiện ở những ngôi làng. Khi đông tới, và sương giá bắt đầu dày lên, anh sẽ đi đốn gỗ trong rừng hoặc nằm lười nhát một thời gian ngắn, cho tới khi có việc gì khác xuất hiện. Giờ đây anh không phải chăm sóc một gia đình lớn, và ngày mai, không còn ngờ gì nữa, sẽ tự chăm sóc cho nó hệt như hôm nay. “Giá tôi có thể xoay xở được,” Grindhusen nói, “tôi biết tôi nên làm gì. Tôi sẽ kiếm cho mình một số dụng cụ thợ nề.” “Vậy ra anh còn là một thợ nề nữa hả?” “Ờ, không hẳn thế, và đó là sự thật. Nhưng khi đào xong cái giếng đó, sao chứ, nó sẽ cần có cái thành giếng, điều đó rất rõ ràng…” Tôi thả bộ quanh đảo như thường lệ, nghĩ tới việc này việc khác. Bình an, bình an, một sự an bình siêu việt đến với tôi bằng một giọng nói thinh lặng từ mỗi cây cối trong rừng. Và giờ đây, bạn hãy nhìn xem, chỉ còn sót lại vài con chim nhỏ; chỉ có vài con quạ lặng lẽ bay từ nơi này sang nơi khác rồi đậu lại. Và những chùm quả thanh lương trà rụng xuống với một tiếng rơi thịch dỗi hờn rồi tự chôn mình vào đám rêu. Có lẽ Grindhusen nghĩ đúng: chắc chắn ngày mai sẽ tự chăm nom cho nó, hệt như hôm nay. Suốt hai tuần qua tôi không nhìn thấy một tờ báo nào, và với tất cả những điều đó, tôi vẫn ở đây, còn sống và khỏe mạnh, đang có một bước tiến triển lớn lao về thanh tĩnh nội tâm; tôi ca hát, ưỡn ngực và đứng quan sát những vì sao ban đêm với mái đầu trần. Suốt mười tám năm qua tôi đã ngồi trong những quán cà phê, cất tiếng gọi người phục vụ nếu một chiếc nĩa không được sạch: tôi chưa bao giờ gọi Gunhild về việc những cái nĩa có sạch hay không! Giờ đã có Grindhusen, tôi tự nhủ; cậu có chú ý không khi anh ta đốt cái tẩu của mình lên, hay cách anh ta dùng que diêm cho tới đoạn cuối cùng nhưng chả bao giờ bị phỏng tay ra sao? Tôi trông thấy một con ruồi bò trên bàn tay của anh, nhưng anh cứ mặc cho nó bò; có lẽ anh chẳng bao giờ chú ý tới việc nó đang ở đó. Đó là cách mà một gã đàn ông nên cảm thấy đối với những con ruồi… Vào lúc xế chiều, Grindhusen lấy thuyền và chèo đi. Tôi đi dọc bãi biển, hát cho mình nghe một chút, ném mấy hòn đá xuống nước, và lôi những mảnh gỗ trôi dạt lên bờ. Những vì sao đã hiện ra, và có cả vầng trăng. Sau vài giờ Grindhusen quay lại, với một bộ đồ nghề thợ nề xôm tụ đặt trong thuyền. Đã lấy trộm ở đâu đó, tôi nghĩ bụng. Chúng tôi vác phần của mỗi người, và giấu mấy thứ đồ nghề giữa những thân cây. Sau đó đêm buông xuống, và mỗi người chúng tôi đi theo con đường riêng biệt của mình. Grindhusen hoàn tất công việc sơn nhà vào xế trưa hôm sau, nhưng đồng ý tiếp tục chẻ củi cho tới sáu giờ để đủ một ngày công. Tôi đi ra chỗ chiếc thuyền của Gunhild và chèo ra biển câu cá, để không có mặt ở đó khi anh ra đi. Tôi không câu được con cá nào, và ngồi trên thuyền thì khá lạnh; tôi cứ nhìn đồng hồ đeo tay hết lần này sang lần khác. Cuối cùng,vào khoảng bảy giờ: hẳn giờ này anh ta đã đi rồi, tôi tự nhủ, và chèo trở về nhà. Grindhusen đã đặt chân lên đất liền, và gọi với sang tôi từ chỗ đó: “Farvel!”[3] Từ đó khiến tôi run lên vì ấm áp; như thể nó là một tiếng gọi từ tuổi trẻ của tôi, từ những ngày của một thế hệ đã trôi qua. Tôi chèo qua chỗ anh và hỏi: “Anh có thể đào cái giếng đó một mình không?” “Không, tôi sẽ phải tìm thêm một người nữa.” “Nhận tôi đi,” tôi nói. “Hãy chờ tôi ở đây trong lúc tôi lên đó và giải quyết công chuyện ở ngôi nhà.” Khi đi được nửa đường, tôi lại nghe tiếng Grindhusen gọi: “Tôi không đợi suốt đêm ở đây được. Và dù sao thì tôi cũng không tin anh định làm điều đó.” “Chỉ chờ một phút thôi mà. Tôi sẽ quay xuống ngay.” Và Grindhusen ngồi xuống bãi biển chờ tôi. Anh biết tôi vẫn còn sót lại một ít thứ rượu Brændevin loại nhất đó.
IV
Chúng tôi tới nhà ông mục sư vào một ngày Thứ bảy. Sau nhiều ngờ vực, cuối cùng Grindhusen đã đồng ý nhận tôi làm bạn đồng hành. Tôi đã mua các thứ cần dùng và vài bộ đồ lao động, và hiện đang đứng đó, trong chiếc áo blu và đôi ủng cao cổ, sẵn sàng bắt tay vào việc. Tôi tự do và vô danh; tôi đã học được cách đi với những bước sải dài, nặng nề, còn về vẻ ngoài của một người làm công, tôi đã có sẵn điều đó ở cả gương mặt và hai bàn tay. Chúng tôi ngụ ngay trong nhà ông mục sư, và nấu ăn trong nhà ủ bia ở ngoài sân. Và chúng tôi khởi sự đào. Tôi thực hiện phần việc của mình, và Grindhusen không hề lầm lẫn khi nhận tôi làm chung. “Nói cho cùng, anh sẽ trở thành một tay thợ loại nhất ở công việc này,” anh nói. Sau khi chúng tôi đã làm việc một lúc, ông mục sư bước ra nhìn, và chúng tôi nhấc mũ chào. Ông là một người trọng tuổi, lặng lẽ và lịch sự trong thái độ và lời lẽ; những nếp nhăn li ti tỏa thành hình rẽ quạt từ hai đuôi mắt, giống như những dấu vết của một ngàn nụ cười tử tế. Ông xin lỗi vì đã cắt ngang, và hy vọng chúng tôi không phiền – nhưng họ gặp rất nhiều rắc rối hàng năm khi lũ gà chui vào vườn. Chúng tôi có thể gác cái giếng lại một lúc, đi vòng quanh để xem xét hàng rào của khu vườn không? Cụ thể có một chỗ… Grindhusen đáp: tất nhiên; chúng tôi sẽ lo liệu ổn thỏa việc ấy cho ông. Thế là chúng tôi tới đó và dựng lại bức rào đổ. Trong lúc chúng tôi đang bận rộn, một tiểu thư bước ra và đứng nhìn. Chúng tôi nhã nhặn chào nàng, và tôi nghĩ trông nàng thật là xinh xắn. Sau đó một cậu trai đang lớn bước ra nhìn, và đưa ra mọi loại câu hỏi. Hai người này là chị em, không còn ngờ gì nữa. Và công việc tiếp tục khá dễ dàng với hai người trẻ tuổi đứng đó nhìn. Rồi chiều xuống. Grindhusen đi về nhà, bỏ tôi ở lại. Đêm đó tôi ngủ trong vựa cỏ khô. Ngày hôm sau là Chủ nhật. Tôi không dám mặc bộ quần áo thành thị vì trông chúng có vẻ vượt khỏi địa vị của tôi, nhưng cũng cố sức làm cho bộ quần áo lao động của tôi được tươm tất, rồi lười lĩnh dạo quanh khu vực trong sự tĩnh lặng của buổi sáng Chủ nhật. Tôi tán gẫu với những tay nông dân và nhập bọn với họ để chuyện trò vu vơ với mấy nàng thiếu nữ; khi chuông bắt đầu đổ báo hiệu giờ tới nhà thờ, tôi vào nhà để hỏi xem tôi có thể mượn một cuốn kinh cầu nguyện hay không, và con trai của ông mục sư tự tay mang tới cho tôi một cuốn. Một trong số mấy người đàn ông cho tôi mượn một cái áo khoác; thật sự, nó không đủ to, nhưng khi cởi cái áo blu và áo gi-lê ra, tôi cũng mặc vào được. Và thế là tôi tới nhà thờ. Sự thanh tĩnh nội tâm tôi từng đạt được trước những nỗi đau để lập thân trên đảo chứng tỏ vẫn còn quá bé nhỏ; với âm thanh run rẩy đầu tiên của chiếc đàn organ, tôi đã bị xé rời khỏi tâm trạng của mình và suýt bật khóc to. “Im lặng nào, đồ ngốc,” tôi tự nhủ, “đây chỉ là chứng suy nhược thần kinh.” Tôi đã chọn một chỗ ngồi tách rời khỏi số còn lại và cố hết sức che đậy cảm xúc của mình. Tôi rất mừng khi buổi lễ kết thúc. Sau khi đã luộc xong thịt và ăn bữa tối, tôi được mời vào bếp để uống một cốc cà phê. Và trong lúc tôi ngồi đó, Frøkenen[4], người thiếu nữ mà tôi đã nhìn thấy hôm trước, bước vào; tôi đứng lên cúi đầu chào nàng và nàng gật đầu đáp lễ. Nàng thật quyến rũ, với tuổi trẻ và đôi bàn tay xinh xắn. Khi đứng lên đi ra, tôi quên mất bản thân và nói: “Cô là người tử tế nhất, tôi chắc vậy, tiểu thư thân mến của tôi!” Nàng ngạc nhiên nhìn tôi, cau mày, và màu hồng lan ra trên đôi má của nàng cho tới khi chúng đỏ ửng lên. Sau đó với một cái hất đầu, nàng quay lưng rời khỏi phòng. Nàng rất trẻ. Chà, tôi đã làm một việc thật hay ho! Khốn khổ tận tâm can, tôi len lén chuồn vào rừng để nấp. Đồ ngốc xấc xược, tại sao tôi không giữ mồm giữ miệng vậy nhỉ! Trong số tất cả những điều lố bịch để nói ra… Nhà của ông mục sư nằm trên sườn một ngọn đồi nhỏ; từ đỉnh đồi, mảnh đất trải ra, bằng phẳng, với những khoảng cây rừng và khoảng trống xen nhau. Tôi chợt nhận ra đây mới là nơi thích hợp để đào cái giếng, rồi sau đó bắc một đường ống xuôi con dốc tới ngôi nhà. Khi tôi cố phán đoán tốt nhất độ cao, có vẻ như nó thừa sức tạo nên áp lực cần thiết; trên đường trở về, tôi ước chừng độ dài bằng cách đếm bước: hai trăm năm mươi bộ. Nhưng nói cho cùng, phải chăng đó là công việc của tôi? Ôi chao, xin đừng để cho tôi lặp lại sai lầm lần nữa, và xúc phạm những người dân này bằng cách nói năng vượt quá địa vị của tôi.
V
Grindhusen lại tới vào sáng Thứ hai, và chúng tôi lao vào đào bới như trước. Ông mục sư già bước ra nhìn, và hỏi chúng tôi có thể giúp ông dựng một cây cột trên con đường tới nhà thờ hay chăng. Ông rất cần tới cây cột đó; trước đây nó từng đứng đó, nhưng đã bị gió xô ngã; ông dùng nó để đóng lên những tấm bảng ghi chú và thông báo. Chúng tôi dựng lên một cây cột mới, và gắng sức làm cho nó đứng thẳng như một cây nến trên giá nến. Tiện tay, chúng tôi cũng trùm kẽm lên đầu cột. Trong lúc đang làm cái mũ trùm, tôi bảo Grindhusen đề nghị nên sơn đỏ cây cột; anh vẫn còn lại chút ít sơn đỏ từ công việc ở nhà cụ Gunhild. Nhưng ông mục sư muốn sơn nó màu trắng, và Grindhusen ngại việc cự cãi nên thận trọng đồng ý với tất cả những gì ông nói, cho tới khi rốt cuộc tôi xen vào một lời, bảo rằng những bảng thông báo bằng giấy trắng sẽ nổi bật hơn trên màu đỏ. Khi nghe nói thế, ông mục sư mỉm cười, với những nếp nhăn vô tận quanh đôi mắt, và bảo: “Phải, phải, dĩ nhiên, anh hoàn toàn đúng.” Và thế là đủ; chỉ cần nụ cười và câu nói rằng tôi đúng đã khiến lòng tôi rất đỗi mừng rỡ, tự hào. Sau đó Frøkenen xuất hiện, nói vài lời với Grindhusen; thậm chí còn nói đùa với anh, hỏi cái cột đỏ thắm dựng trên đường đó để làm gì. Nhưng nàng không nói gì với tôi hết, thậm chí không thèm nhìn tới tôi khi tôi nhấc mũ. Ngày hôm đó, bữa ăn là một thử thách đau đớn đối với tôi, không phải vì thức ăn tệ, mà vì Grindhusen, anh ăn món xúp với một cung cách đáng tởm, và mồm anh bóng nhờn mỡ. “Anh ta sẽ như thế nào khi ăn cháo đặc nhỉ?” Tôi nghĩ thầm, bực bội. Sau đó, khi anh ta ngã lưng vào chiếc ghế dài để nghỉ ngơi sau bữa ăn với cùng tình trạng mồm bóng mỡ đó, tôi nói thẳng với anh ta: “Trời ơi, anh bạn, anh có chịu lau sạch miệng của anh không vậy?” Anh ta nhìn tôi chằm chặp, đưa một bàn tay lên lau miệng.“Miệng hả?” anh ta nói. Khi đó tôi cố biến nó thành một câu nói đùa và nói: “Haha, đúng đó!” Nhưng tôi bất mãn với chính mình, vì tất cả những điều đó, và rời khỏi nhà ủ bia ngay sau đó. Rồi tôi chợt nghĩ tới Frøkenen. “Mình sẽ làm cho nàng phải trả lời khi mình chào nàng.” Tôi tự nhủ. “Mình sẽ để cho nàng sớm nhận ra mình không hề là một tên ngu ngốc.” Còn có công việc về cái giếng và đường ống nước; nếu tôi lập ra một kế hoạch để hoàn thành toàn bộ công trình thì sao nhỉ! Tôi không có dụng cụ để đo độ cao thấp của ngọn đồi… được thôi, tôi có thể tạo ra một thứ hữu dụng. Và tôi bắt tay vào việc. Một cái ống bằng gỗ, với hai cái chụp đèn gắn vào bằng mát tít, và tất cả chứa đầy nước. Chẳng bao lâu tôi phát hiện ra có nhiều việc nho nhỏ cần để mắt tới ở nhà ông mục sư – những công việc vặt vãnh ở chỗ này chỗ khác. Một bậc thềm đá cần chỉnh cho thẳng lại, một bức tường cần được sửa; cái cầu thang bắc tới kho chứa thóc cần được kéo dài trước khi có thể đưa thóc vào. Ông mục sư thích mọi thứ trong nhà đều ngăn nắp và trật tự – và với chúng tôi tất cả cũng như nhau, khi xét tới việc chúng tôi được trả công theo ngày. Nhưng theo thời gian, tôi ngày càng trở nên mất kiên nhẫn với sự có mặt của ngườibạn làm chung. Ví dụ, việc nhìn thấy anh nhặt một ổ bánh từ bàn lên, kê nó sát vào ngực, rồi cắt ra một lát với một con dao bỏ túi bóng mỡ mà anhluôn luôn đưa vào miệng, thật là một cực hình đối với tôi. Và thêm nữa, anh thường không tắm rửa suốt cả tuần, từ Chủ nhật này sang Chủ nhật khác. Vào buổi sáng, trước khi mặt trời ló dạng, và vào buổi chiều tối, sau khi nó đã lặn, luôn luôn có một giọt lấp lánh treo lủng lẳng ở chóp mũi của anh. Rồi tới những cái móng tay của anh! Còn về đôi lỗ tai của anh, đơn giản là chúng đã biến dạng. Ôi chao! Tôi là một gã nhà giàu mới phất đã học được những cung cách tốt đẹp trong những quán cà phê thị trấn. Và do tôi không thể kềm chế được việc thỉnh thoảng nói với người bạn của tôi những gì tôi nghĩ về cung cách bẩn thỉu của anh, giữa chúng tôi đã nảy sinh một cảm giác khó chịu nhất định, và tôi sợ rằng chúng tôi sẽ sớm phải tách rời nhau. Do vậy, hầu như giờ đây chúng tôi không nói năng gì ngoài những điều cần thiết. Và cái giếng còn đó, vẫn chưa đào xong như trước. Chủ nhật đến, và Grindhusen đã trở về nhà. Hiện giờ tôi đã làm xong cái dụng cụ thí nghiệm của mình. Vào buổi xế trưa, tôi trèo lên mái nhà chính và đặt nó ở đó. Tôi nhìn thấy ngay rằng tầm nhìn cắt với sườn đồi nhiều mét bên trên đỉnh mái nhà. Tốt. Ngay cả khi hạ mực nước xuống một mét, vẫn còn đủ và thừa áp lực. Trong lúc tôi bận bịu trên đó, con trai của ông mục sư nhìn thấy tôi. Cậu ta tên là Harald Meltzer. Và tôi đang làm gì trên đó? Đang đo ngọn đồi; để làm gì? Tôi muốn biết độ cao để làm gì? Tôi có thể cho cậu ta thử không? Sau đó tôi tìm ra một khúc dây dài mười mét, và đo ngọn đồi từ chân tới đỉnh, với sự giúp đỡ của Harald Meltzer. Khi chúng tôi trở xuống nhà, tôi đề nghị được gặp ông mục sư, và nói với ông về kế hoạch của tôi.