Anna Karenina (Quyển 5 – Chương 16-20)

Anna Karenina

Leo Tolstoy

Chương 16

Levin lên gác và thấy vợ đang ngồi đó, cạnh ấm đun trà và bộ ấm chén mới tinh. Nàng bảo vú già Agafia Mikhailovna cầm ly trà ngồi xuống cạnh bàn tròn, rồi đọc thư của Đôly: hai chị em vẫn đều đặn viết thư cho nhau.

– Cậu thấy chưa, mợ đã bảo tôi ngồi cạnh mợ đấy, – Agafia Mikhailovna mỉm cười thân ái với Levin.

Trong câu đó, Levin đọc thấy sự cởi nút tấn kịch xảy ra hồi gần đây giữa Agafia Mikhailovna và Kitty. Chàng thấy mặc dầu nàng đã giành hết quyền cầm cân nảy mực làm bà vú già buồn phiền, Kitty chiến thắng vẫn biết cách làm người ta yêu mến mình.

– Em đã bóc lá thư này gửi cho anh, – Kitty nói và đưa chàng một bức thư chữ viết sai chính tả.

– Em chắc của cái bà đó, của anh trai anh… Em chưa đọc đâu. Còn em, em nhận được một thư của ba mẹ và một của chị Đôly. Anh thử tượng tượng xem, Đôly đã dẫn Grisa và Tania đi dự một cuộc khiêu vũ trẻ con ở nhà Xarmatxki! Tania mặc giả nữ hầu tước.

Nhưng Levin không nghe nàng nói: chàng đỏ mặt cầm lấy thư của Maria Nicolaievna, người tình cũ của anh trai, và đọc. Đây là bức thứ hai bà ta gửi đến. Trong bức thứ nhất, Maria Nicolaievna kể là anh chàng đã đuổi bà ta mặc dầu bà vô tội, và với một giọng thực thà tội nghiệp, bà viết thêm mặc dầu túng quẫn, bà không yêu cầu gì mà chỉ đau đớn nghĩ tới Nicolai Dimitrievitr vốn ốm yếu như thế, rồi đến chết dần chết mòn mất thôi và xin Levin trông nom đến ông ta. Hôm nay, bà viết là đã gặp Nicolai Dimitrievtr, đã trở lại ăn ở với nhau tại Moskva, rồi về một thành phố nhỏ; ở đó ông ta xin được việc làm tại một công sở. Tại đây, ông cãi lộn với cấp trên, rồi lại trở về Moskva, nhưng dọc đường, bị ốm nặng đến nỗi bà lo khó lòng qua khỏi.

– Anh ấy luôn nhắc đến chú và anh ấy hết cả tiền rồi, – bà ta nói.

– Này, Đôly nhắc đến anh đấy, – Kitty mỉm cười nói, nhưng bỗng dừng lại khi nhận thấy vẻ mặt thất sắc của chồng.

– Anh làm sao thế? Có việc gì xảy ra thế hở anh?

– Bà ấy viết thư bảo là anh Nicolai sắp chết. Anh phải đến với anh ấy.

Mặt Kitty đột nhiên biến sắc. Tania mặc giả nữ hầu tước và Đôly đã biến khỏi đầu óc nàng.

– Bao giờ? – nàng hỏi.

– Ngày mai.

– Em có thể đi với anh được không?

– Ồ, Kitty, sao em lại nghĩ thế? – chàng nói, giọng trách móc.

– Sao em lại nghĩ thế à? – nàng trả lời, tự ái vì thấy đề nghị của mình được tiếp nhận một cách bực bội và miễn cưỡng như vậy.

– Tại sao em lại không đi được? Em sẽ không làm phiền gì anh cả. Em…

– Anh phải đi vì anh ruột anh sắp chết, – Levin nói.

– Còn em thì vì sao…

– Vì sao à? Vì cùng một lí do như anh đấy.

“Ngay cả lúc nghiêm trọng như thế này, cô ta cũng chỉ lo ở nhà một mình buồn”, Levin thầm nghĩ. Và việc nàng viện cớ tạ sự trong hoàn cảnh nghiêm trọng như vậy, làm chàng tức giận.

– Không thể được, – chàng nghiêm khắc nói.

Agafia Mikhailovna thấy họ lại sắp cãi nhau, lặng lẽ đặt chén xuống và đi ra. Kitty thậm chí không để ý đến điều đó. Cái giọng của chồng khi nói mấy tiếng cuối cùng càng xúc phạm nàng vì rõ ràng chàng không tin lời nàng nói.

– Còn em, em nói là nếu anh đi thì nhất định em cùng đi, nàng hấp tấp nói, giọng giận dữ.

– Tại sao lại không thể được? Tại sao anh lại nói là không thể được?

– Bởi vì có trời mà biết được chúng ta sẽ đi đứng như thế nào, đường sá thì xấu, ăn ngủ thì ở hàng, quán… Em sẽ làm anh vướng víu, – Levin nói, cố giữ điềm tĩnh.

– Không vướng víu chút nào hết. Em không cần gì cả! Anh có thể đi tới đâu thì em cũng có thể tới đó được…

– Chỉ riêng việc có người đàn bà đó mà em không thể giao thiệp, cũng đủ là một lí do khiến em không nên đi.

– Em không biết và không muốn biết gì cả. Em chỉ biết anh ruột chồng em sắp chết, chồng em phải đến với ông ta, và em sẽ đi theo chồng để…- Kitty! Đừng có nóng nảy. Mà phải suy nghĩ. Hoàn cảnh rất nghiêm trọng cho nên anh thật khổ tâm thấy em để xen vào đó tình cảm uỷ mị phải ở nhà một mình. Nếu em buồn thì đến Moskva ở vậy.

– Ra thế đấy, anh luôn luôn gán cho em những tư tưởng hèn hạ và tầm thường, – nàng nói, ứa nước mắt tức giận.

– Hoàn toàn không phải chuyện uỷ mị. Em thấy bổn phận em là phải gần chồng trong cơn hoạn nạn, nhưng anh lại cố tình làm khổ em, anh cố tình làm ra không hiểu…

– Ôi! Thật kinh khủng, phải nô lệ đến mức thế này! – Levin kêu lên và đứng dậy, không thể nén giận lâu hơn nữa. Nhưng đồng thời chàng cảm thấy đó là một đòn tự giáng vào đầu mình.

– Thế thì tại sao anh lấy vợ? Nếu không anh đã tự do. Tại sao anh lại lấy vợ, nếu anh hối hận vì việc ấy? – nàng nói. Nàng vùng đứng lên và chạy vụt sang phòng khách.

Khi chàng đến bên thì nàng đang khóc nức nở.

Chàng bắt đầu nói, muốn tìm những câu nếu không đủ sức thuyết phục thì ít nhất cũng làm cho nàng nguôi giận. Nhưng nàng không nghe chàng nói và không chịu chấp nhận gì cả. Chàng cúi xuống cầm tay nàng nhưng nàng giằng ra. Chàng hôn tay, hôn tóc, lại hôn tay lần nữa… nàng vẫn im lặng. Nhưng khi chàng đưa hai tay ấp lấy mặt nàng và gọi “Kitty!”, đột nhiên nàng trở lại bình tĩnh, sụt sịt chút nữa rồi xiêu dần, làm lành với chàng.

Họ quyết định ngày hôm sau cùng đi. Levin bảo vợ là chàng đã tin nàng chỉ muốn theo chồng để giúp đỡ, và thừa nhận rằng sự có mặt của Maria Nicolaievna bên cạnh anh chàng, không có gì bất tiện cả; nhưng trong thâm tâm, chàng ra đi, bất mãn với cả vợ lẫn bản thân mình. Chàng không bằng lòng vợ vì nàng không chịu để chàng đi khi cần phải đi (chàng ngạc nhiên nghĩ, mới cách đây ít lâu, chàng còn chưa dám tin rằng nàng có thể yêu mình, thế mà bây giờ, chàng lại khổ sở vì nàng quá yêu!); chàng không bằng lòng mình vì đã thiếu kiên quyết. Nhưng điều làm chàng lo ngại nhất là việc Kitty sẽ phải tiếp xúc với người đàn bà cùng sống với ông anh và chàng sợ hãi khi nghĩ đến tất cả những va chạm có thể xảy ra. Chỉ cần nghĩ đến việc vợ mình, Kitty của chàng, sẽ ở cùng buồng với một gái điếm, chàng cũng đủ rùng mình kinh sợ và ghê tởm.

Chương 17

Khách sạn thị trấn nơi Nicolai Levin đang nằm chờ chết là một trong những khách sạn tỉnh lẻ mà thiết bị gồm mọi cải tiến mới mẻ, với tham vọng sạch sẽ, tiện nghi và thanh lịch nữa, nhưng lại bị khách hàng rất nhanh chóng biến thành quán rượu bẩn thỉu mà cầu kì, và sự cầu kì đó còn làm nó tồi tệ gấp mười những khách sạn cổ lỗ đành phận bẩn sẵn. Khách sạn này đã đến cái nước đó rồi: nào chú lính giữ chân gác cửa, mặc đồng phục bẩn thỉu đang hút thuốc lá trong phòng chờ, nào cầu thang bằng gang chạm trổ buồn tẻ và tối tăm, nào anh bồi lôi thôi lếch thếch trong chiếc áo đuôi tôm nhọ nhem, nào buồng ăn công cộng với những bó hoa giả bằng sáp bụi bặm bầy trênb àn, nào cáu ghét, bẩn thỉu cùng với cái kiểu cách hợm hĩnh đang thịnh hành kể từ khi phát triển đường xe lửa, tất cả gây cho Levin, vừa mới sống cuộc đời vợ chồng trẻ, một cảm giác thật nặng nề, nhất là ấn tượng giả dối đó lại không phù hợp chút nào với cái đang chờ họ.

Cũng như trong mọi trường hợp tương tự, khi người ta hỏi họ muốn thuê loại buồng giá bao nhiêu thì y như rằng không còn buồng tốt nào chưa có khách: cái thì một ông thanh tra đường sắt thuê, cái thì một luật sư ở Moskva trọ, cái thứ ba lại xếp cho quận chúa Axtafieva từ nông thôn ra. Người ta chỉ dành cho họ độc một gian buồng bẩn thỉu, và hứa đến tối sẽ thu xếp một buồng không bên cạnh. Levin bực mình vì thấy dự đoán đã thành sự thực: vừa chân ướt chân ráo đến nơi đã phải lo cho vợ, trong khi đang thắt lòng thắt ruột nghĩ tới anh và đáng ra cần chạy ngay đến đó. Chàng liền dắt Kitty vào căn buồng dành cho họ.

– Anh cứ đi đi, đi đi! Nàng nói và len lét nhìn chàng, vẻ phạm tội.

Chàng lẳng lặng đi ra và đụng ngay phải Maria Nicolaievna, bà biết chàng đến nhưng chưa dám vào gặp. Bà ta vẫn y như hồi chàng gặp ở Moskva: cũng vẫn chiếc áo dài len, để hở cánh tay và hở cổ, vẫn khuôn mặt rỗ, đần độn, hiền lành và hơi xị ra.

– Thế nào? Anh ấy ra sao?

– Yếu lắm. Anh ấy nằm liệt giường không đi đâu được. Anh ấy nóng lòng chờ chú. Anh ấy… chú… chú đi với thím ấy à?

Levin chưa kịp hiểu ra điều gì làm bà ta lúng túng thì bà đã vội phân trần ngay.

– Tôi đi ngay đây, tôi sẽ vào bếp, – bà ta nói. – Anh ấy sẽ hài lòng. Anh ấy biết thím đấy, anh ấy nhớ đã gặp thím ở nước ngoài.

Levin hiểu bà ta nói về vợ mình và không biết trả lời ra sao.

– Thôi, ta đi thôi!- chàng nói.

Nhưng chàng vừa bước đi một bước thì cánh cửa buồng đã mở và Kitty hiện ra. Levin đỏ mặt vừa ngượng vừa bực vì thấy nàng đã dồn cả hai vợ chồng vào một tình thế éo le; nhưng Maria Nicolaievna còn đỏ mặt hơn. Bà ta co dúm người lại, nước mắt vòng quanh, hai tay cầm hai đầu khăn vuông vặn vẹo trong ngón tay đỏ dừ, không biết ăn nói xử sự ra sao.

Trong chớp mắt, Levin thấy vẻ tò mò hau háu trong cái nhìn Kitty hướng về người đàn bà gớm ghiếc đó mà nàng không hiểu nổi; nhưng vẻ đó chỉ loé lên như một tia chớp.

– Thế nào, anh ấy ra sao? – nàng vừa hỏi vừa quay về phía chồng rồi về phía người đàn bà.

– Ta không nên đứng ở hành lang mà nói chuyện! – Levin nói, vừa cáu kỉnh nhìn một ông chật chưỡng đi qua hành lang lúc đó.

– Thế thì mời chị vào đây, – Kitty bảo Maria Nicolaievna lúc này đã trấn tĩnh lại; – hay là cứ đi đi thôi, – nàng nói thêm, khi nhìn thấy nét mặt hoảng hốt của chồng; – rồi cho tìm em nhé, – và nàng trở vào buồng. Levin đi đến chỗ ông anh.

Chàng hoàn toàn không hình dung trước được cảnh tượng đang chờ chàng. Chàng nghĩ sẽ gặp ông anh ở trong trạng thái khoái hoạt thường thấy ở người lao, chàng vẫn nghe nói vậy, trạng thái đó từng làm chàng rất ngạc nhiên trong lần anh chàng đến thăm dạo mùa thu. Chàng chắc trước lúc lâm chung sẽ có triệu chứng rõ rệt hơn, như yếu mệt, gầy còm hơn, nhưng dù sao anh chàng có lẽ cũng vẫn gần như trong tình trạng cũ. Chàng dự đoán mình sẽ thương tiếc vì mất người anh yêu quý và sẽ lại cảm thấy nỗi khiếp hãi trước cái chết mà trước kia chàng đã trải qua, nhưng nay ở mức độ mãnh liệt hơn. Và chàng chuẩn bị chờ cái đó; nhưng điều chàng thấy lại khác hẳn.

Trong căn buồng nhỏ nhớp nháp, ván ghép tường quét sơn đầy vết đờm bẩn, cùng tấm vách mỏng mảnh không ngăn được tiếng trò chuyện lọt sang, trong bầu không khí hôi hám vì rác rưởi, trên chiếc giường kê xa tường, một thân hình đắp chăn nằm thườn thượt. Đặt trên mặt chăn là một bàn tay rộng như cái cào, không hiểu sao lại dính liền với một ống suốt dài, khúc đầu khúc giữa đều mảnh như nhau. Cái đầu nằm nghiêng trên gối. Levin nhìn thấy mớ tóc thưa thớt, dính chặt vào hai thái dương bết mồ hôi, và vầng trán cao gần như trong suốt.

“Lẽ nào cái thây ma này lại là anh Nicolai của mình?”. Levin thầm nghĩ. Nhưng chàng lại gần, trông rõ mặt và không thể nghi ngờ gì được nữa. Mặc dầu mặt ông ta hốc hác đến phát sợ, Levin chỉ cần nhìn vào đôi mắt tinh nhanh ngước lên nhìn người đang đi tới, trông thấy đôi môi thoáng mấp máy dưới cặp ria mép đẫm mồ hôi, là đủ hiểu rõ sự thật ghê rợn: thây ma này đúng là anh ruột chàng.

Đôi mắt long lanh nghiêm khắc nhìn chàng đầy oán trách. Và cái nhìn đó lập tức xác lập những quan hệ sinh động giữa hai người sống. Levin nhìn thấy sự oán trách biểu lộ trong cặp mắt đăm đăm nhìn chàng và hổ thẹn vì hạnh phúc của mình.

Nicolai mỉm cười khi Konxtantin nắm tay ông. Một nụ cười yếu ớt, gần như không thấy được trong khi đôi mắt vẫn nghiêm khắc.

– Chú không ngờ anh đến nông nỗi này phải không? – ông khó nhọc nói.

– Có… không, – Levin lúng búng nói. – Tại sao anh không báo cho tôi biết sớm hơn, từ dạo tôi cưới vợ ấy? Tôi đã cho tìm anh khắp nơi.

Phải trò chuyện, tránh nín lặng, mà chàng thì không biết nói gì, nhất là ông anh không trả lời mà chỉ ngước mắt nhìn chàng: rõ ràng ông đang gắng hiểu cho ra ý nghĩa từng câu. Levin báo cho anh biết vợ chàng cùng đến. Nicôlai tỏ vẻ hài lòng, nhưng nói ông e làm nàng sợ hãi. Một phút im lặng. Đột nhiên, Nicolai cựa quậy và bắt đầu nói. Qua vẻ mặt, Levin tưởng ông sắp kể với chàng một việc gì rất quan trọng, nhưng Nicolai chỉ nói về tình hình sức khỏe của mình. Ông than phiền về thầy thuốc, tiếc rằng thiếu mặt một danh y ở Moskva và Levin hiểu là ông hãy còn hi vọng.

Lợi dụng giây phút im lặng đầu tiên, Levin đứng dậy muốn thoát khỏi cảm giác bức bối, dù chỉ một lát thôi, và nói là phải đi đón vợ lại.

– Được, Để tôi bảo họ quét dọn đây một tí. Tôi chắc là bẩn và hôi hám lắm phải không. Masa, vào thu dọn đi, – người bệnh khó nhọc nói. – Và khi nào xong rồi thì đi ra, – ông nói thêm với Maria Nicolaievna và nhìn em trai, vẻ dò hỏi.

Levin không trả lời. Khi ra đến hành lang, chàng dừng lại. Chàng đã nói là đi đón vợ, nhưng bây giờ, nhận thức ra cái cảm giác vừa trải qua, trái lại, chàng quyết định sẽ cố khuyên nàng không nên đến chỗ người ốm, “Tại sao nàng phải chịu đựng như mình?” – chàng thầm nghĩ.

– Thế nào, anh ấy ra sao?- Kitty hỏi, vẻ mặt sợ hãi.

– Ồ! Thật là khủng khiếp, khủng khiếp! Tại sao em lại đến đây nhỉ? – Levin nói.

Kitty nín lặng vài giây, ngắm chồng, vẻ rụt rè và khổ sở. Rồi nàng bước đến gần và níu cả hai tay vào cánh tay chồng.

– Koxtia, cứ dẫn em đến chỗ anh ấy, như thế đỡ khổ tâm cho cả hai ta. Cứ dẫn em đến, em van mình, và để mặc em với anh chị ấy, – nàng nói.

– Mình nên hiểu, điều khổ tâm cho em hơn cả là thấy mình mà không được thấy anh ấy, còn nếu ở đó, có lẽ em cũng giúp ích được. Mình nhận lời đi, em van mình, – nàng nói bằng một giọng cầu khẩn, làm như hạnh phúc của nàng tuỳ thuộc vào đó.

Levin đành bằng lòng và sau khi trấn tĩnh, chàng liền cùng Kitty quay lại chỗ ông anh; chàng hoàn toàn quên bẵng Maria Nicolaievna.

Dáng đi nhẹ nhàng, bộ mặt can đảm và thương cảm luôn luôn hướng nhìn về phía chồng, Kitty bước vào buồng người ốm, thong thả quay lại, khe khẽ đóng cửa. Rồi nàng nhanh nhẹn và lặng lẽ bước đến gần giường người ốm, tìm một chỗ ngồi thuận hướng để ông khỏi phải quay đầu lại, cầm bàn tay to lớn trong bàn tay trẻ trung, tươi mát của mình, khe khẽ bóp chặt và với cái tài đặc biệt của phụ nữ là tỏ ra thương cảm mà không làm phật lòng, nàng nói chuyện với ông, vẻ hồ hởi dịu dàng.

– Chúng ta đã gặp nhau ở Xođen, nhưng dạo ấy chưa quen nhau. Chắc anh không ngờ em sẽ trở thành em dâu anh.

– Chắc thím không nhận ra tôi phải không? – ông nói. Khuôn mặt ông sáng lên một nụ cười từ lúc nàng bước vào.

– Ồ! Có chứ. Anh báo cho chúng em biết tin như thế là phải lắm! Koxtia đang lo lắng, ngày nào anh ấy cũng nói với em về anh. Nhưng người ốm phấn khởi không được lâu.

Nàng chưa kịp dứt lời, mặt ông đã lại nghiêm trang, lộ rõ vẻ trách móc và ghen tị của người sắp chết với người sống.

– Em e anh ở đây không được tốt lắm, – nàng nói, tránh cái nhìn đăm đăm của ông và đưa mắt nhìn quanh phòng. – Phải hỏi chủ khách sạn lấy một buồng khác để chúng ta có thể gần nhau, – nàng bảo chồng.

Chương 18

Levin không thể điềm nhiên nhìn anh trai, không thể tự nhiên và bình tĩnh trước mặt ông được. Khi bước vào buồng người ốm, cả mắt lẫn sự chú ý của chàng bất giác nhoà hẳn đi, không nhìn thấy và phân biệt được chi tiết tình cảnh ông anh. Chàng chỉ ngửi thấy một mùi tởm lợm, nhìn thấy sự bẩn thỉu, bừa bãi, nghe thấy tiếng rên và cảm thấy bó tay không sao cứu vãn nổi tình cảnh khủng khiếp đó. Chàng cũng không hề nghĩ đến chuyện phân tích những chi tiết của tình cảnh đó, chuyện tự hỏi xem cái thân hình đắp chăn kia đang nằm như thế nào, đôi cẳng chân gầy giơ xương, cái thân, cái lưng được đặt như thế nào và liệu có thể tìm một tư thế nào tốt hơn không, làm một cái gì đó để người ốm nếu không dễ chịu hơn thì cũng bớt đau đớn. Một cảm giác ớn lạnh chạy suốt sống lưng khi chàng nghĩ đến tất cả những chi tiết đó. Chàng tin chắc không còn cách nào để kéo dài đời sống hoặc giảm bớt đau đớn cho ông. Nhưng ý thức về sự bất lực hoàn toàn làm chàng đau khổ và bực tức. Do đó, chàng càng khó chịu. Phải ở trong buồng người ốm thật là một cực hình, nhưng tránh không vào lại càng tệ hơn, cho nên chàng kiếm đủ mọi cớ linh tinh để luôn luôn đi ra đi vào, không đủ can đảm ở lại một mình.

Nhưng Kitty lại suy nghĩ, cảm giác và hành động hoàn toàn khác hẳn. Nhìn thấy người ốm, nàng đã chạnh lòng thương. Nhưng tình thương không làm nảy nở trong tâm hồn phụ nữ của nàng cảm giác ghê sợ và kinh tởm như ở Levin mà chỉ khiến nàng thấy cần phải hành động, phải biết đầy đủ, tỉ mỉ về tình hình người ốm và tìm cách săn sóc. Và vì không lúc nào nàng nghi ngờ nhiệm vụ mình là phải săn sóc người ốm, cho nên nàng cũng không hề nghi ngờ khả năng làm được việc đó; cho nên nàng lập tức bắt tay vào việc. Nàng chú ý ngay tới những chi tiết mà chồng chỉ nghĩ tới cũng đủ khiếp sợ rồi. Nàng cho đi mời thầy thuốc, cho mang thuốc đến, sai cô hầu phòng cùng Maria Nicolaievna quét dọn, lau chùi, tự mình giặt giũ quần áo, sửa sang lại giường người ốm, cho mang tới mang lui mọi thứ đồ dùng. Nàng đã mấy lần quay về buồng mình, không hề bận tâm tới những người gặp ngang đường, đem đến nào vải lót giường, áo gối, nào khăn lau tay, áo sơ mi.

Gã bồi đang hầu bàn cho bữa trưa của các kĩ sư ở phòng ăn công cộng nghe nàng gọi, đã mấy lần phải chạy đến, nét mặt hầm hầm tức giận, nhưng không thể trốn tránh những việc nàng sai bảo, vì nàng nói rất khẩn thiết hoà nhã đến nỗi không nỡ nào từ chối. Levin không tán thành mọi cái đó. Chàng không tin người ốm có thể do đó mà thuyên giảm chút nào. Và nhất là chàng còn lo ông anh sẽ nổi giận nữa. Nhưng, mặc dầu ra vẻ thờ ơ với những việc đó, người ốm vẫn không nổi giận; ông chỉ tỏ vẻ bối rối và hình như cũng để ý tới sự chăm sóc của nàng đối với mình. Levin được Kitty phái đi mời bác sĩ và ở đó trở về, lúc mở cửa bước vào, chàng thấy mọi người đang thay quần áo cho người ốm. Chiếc lưng dài trắng phơi trần với đôi xương bả vai to tướng, bộ xương sườn và xương sống nhô ra, và Maria Nicolaievna cùng tên bồi đang lúng túng với đôi tay áo sơ mi, không sao xỏ đôi cánh tay dài cứng đơ của người ốm vào được. Kitty nhanh nhẹn đóng cửa ra vào đằng sau Levin và không nhìn về phía đó; nhưng người ốm bắt đầu rên vì nàng vội tới ngay chỗ ông.

– Nhanh lên! – nàng nói.

– Đừng lại gần, – người ốm cáu kỉnh bảo nàng.

– Để tôi mặc lấy…

– Mình bảo gì? – Nicolaievna hỏi.

Nhưng Kitty đã nghe thấy và hiểu ông ta xấu hổ vì phải cởi trần trước mặt nàng.

– Em không nhìn đâu, không nhìn đâu! – nàng nói và cầm tay anh chồng xỏ vào áo. – Maria Nicolaievna, chị giúp anh ấy ở phía bên kia, – nàng nói thêm.

– Mình giúp em đi lấy cái lọ con ở trong xắc, – nàng bảo chồng, – mình biết chứ, ở cái túi con bên cạnh ấy; mình mang nó lại đây, trong lúc đó bọn em sẽ thu dọn xong cái phòng này.

Khi chàng cầm chiếc lọ con trở lại, Levin thấy người ốm đã nằm xuống. Chung quanh chàng, tất cả đã hoàn toàn thay đổi. Mùi nồng nặc nhường chỗ cho mùi dấm thơm mà Kitty đang bặm môi, phồng đôi má đỏ hồng thổi vào cái ống con phun ra. Bụi bặm đã quét sạch, thảm trải ngay cạnh giường. Trên bàn bày gọn gàng chai lọ, một chồng quần áo và tấm thêu kiểu Anh 1 của Kitty. Một lọ thuốc nước, cây nến và gói thuốc bột đặt trên một cái bàn khác kê cạnh giường người ốm. Còn người ốm đã rửa ráy và chải đầu, mình mặc sơ mi sạch, nằm nghỉ trong tấm mền sạch sẽ, đầu gối lên chồng gối cao; cái cổ gầy nghẹo ngọ thò ra khỏi cổ áo trắng và một tia hi vọng mới hiện lên trong đôi mắt dán chặt vào Kitty.

Levin gặp bác sĩ ở ngoài câu lạc bộ và dẫn đến, đây không phải người vẫn chữa cho Nicolai Levin và thường làm ông bực mình. Bác sĩ chẩn đoán bệnh cho người ốm, lắc đầu, kê đơn rồi căn dặn kĩ lưỡng, trước tiên là cách thức dùng thuốc và sau đó chế độ ăn uống kiêng khem thế nào. Ông ta khuyên nên ăn trứng sống hoặc trứng lòng đào và uống nước suối với sữa nóng tới một nhiệt độ nhất định. Bác sĩ đi rồi, người ốm nói vài lời với em trai, Levin chỉ nghe ra mấy tiếng cuối: “Katya của chú” 2, nhưng qua cặp mắt ông nhìn vợ chàng, Levin biết ông khen ngợi nàng. Rồi ông kêu Katya đến, vẫn gọi nàng bằng cái tên đó.

– Tôi khá hơn nhiều lắm rồi, – ông nói.

– Giá có thím thì có lẽ tôi đã khỏi bệnh từ lâu rồi. Tôi dễ chịu lắm! – ông cầm tay nàng và đưa lên môi nhưng hình như sợ làm nàng khó chịu, ông ghìm ngay lại, đặt xuống và chỉ vuốt ve thôi. Kitty nắm chặt bàn tay đó vào hai tay mình.

– Bây giờ, thím trở người cho tôi nằm nghiêng bên trái rồi thím đi ngủ đi, – ông nói. Chỉ có mình Kitty hiểu rõ lời ông. Nàng hiểu rõ vì luôn luôn tự hỏi ông đang cần gì.

– Về phía bên kia, – nàng nói với chồng, – bao giờ anh ấy cũng nằm ngủ nghiêng về phía bên kia; mình hãy trở người cho anh ấy một mình, đừng gọi bồi, thêm phiền ra. Em thì không đủ sức. Thế còn chị? – Nàng hỏi Maria Nicolaievna.

– Tôi sợ lắm, – bà ta trả lời.

Mặc dầu Levin rất khiếp sợ phải ôm trong tay thân hình ghê rợn đó, phải sờ vào những bộ phận cơ thể dưới cái chăn đó mà chàng không muốn biết tới, chàng vẫn làm theo ý vợ. Với vẻ mặt quả quyết, quen thuộc đối với nàng, chàng ôm ngang người ông anh, nhưng mặc dầu rất khoẻ, chàng vẫn kinh ngạc vì sức nặng kì lạ của những chân tay kiệt lực đó. Trong khi chàng trở người cho anh và cảm thấy một cánh tay gầy giơ xương quàng lấy cổ thì Kitty nhanh nhẹn lật gối, phủi bụi và vuốt gọn mớ tóc thưa của Nicolai đã lại dính bết vào hai bên thái dương.

Người ốm nắm lấy tay em trai. Levin cảm thấy ông định làm gì đó với bàn tay mình và đang kéo nó. Chàng để mặt ông làm, trong lòng thổn thức. Cuối cùng, ông đưa tay chàng lên môi hôn. Levin nức nở khóc rung cả người, ra khỏi phòng không nói nên lời.

Chương 19

“Người đã vạch cho trẻ nhỏ biết những điều Người giấu các nhà hiền triết và các bậc trí nhân”, Levin thầm nghĩ khi trò chuyện với vợ tối đó.

Sở dĩ Levin nghĩ tới câu đó trong kinh Phúc âm, không phải vì chàng tự cho mình là hiền triết. Chàng không tự cho mình là hiền triết, nhưng không thể không biết mình thông minh hơn vợ và Agafia Mikhailovna, mặt khác, chàng cũng hiểu khi nghĩ đến cái chết, chàng đã nghĩ với tất cả sức lực tâm hồn. Chàng lại biết, vì đã đọc những suy nghĩ của họ về vấn đề đó, rất nhiều vĩ nhân cũng từng nghĩ đến cái chết nhưng không khám phá được lấy một phần trăm những điều vợ chàng và Agafia Mikhailovna hiểu về nó. Agafia Mikhailovna và Katya -như ông anh Nicolai thường gọi và Levin bây giờ cũng thích gọi thế – hai người đàn bà rất khác nhau lại hoàn toàn giống nhau về phương diện này. Không chút nghi ngờ, họ hiểu thế nào là sự sống và thế nào là cái chết, và mặc dầu không trả lời được những vấn đề đặt ra với Levin và cũng không hiểu nổi những vấn đề ấy, họ vẫn không hề ngờ vực ý nghĩa của hiện tượng đó và cùng chung một quan điểm với hàng triệu người khác. Họ tỏ ra hiểu biết sâu sắc về ý nghĩa cái chết: không một phút do dự, họ biết cách cư xử với kẻ hấp hối và không hề ghê sợ. Levin và rất nhiều người khác, mặc dầu có khả năng suy nghĩ khá nhiều về cái chết, rõ ràng vẫn không hiểu tại sao mình lại sợ cái chết và hoàn toàn không biết làm gì khi có người hấp hối. Nếu lúc này Levin ở một mình với ông anh Nicolai, hẳn chàng sẽ khiếp sợ ngắm ông ta, sẽ chờ đợi với một nỗi khiếp sợ còn lớn hơn thế nữa và không biết làm gì khác.

Hơn nữa, chàng cũng không biết nói gì, xử sự thế nào, đi đứng ra sao. Nói chuyện bâng quơ thì xấu hổ; nói đến cái chết, đến chuyện buồn, thì không nên. Im lặng cũng không được. “Nếu mình nhìn anh ấy, anh ấy sẽ tưởng mình nghiên cứu anh ấy, mình sợ hãi; nếu không nhìn, anh ấy lại tưởng mình nghĩ tới việc khác; nếu đi rón rén trên đầu ngón chân, anh ấy sẽ bực tức, mà đi lại ầm ĩ thì không dám”. Kitty rõ ràng không nghĩ và cũng không có thời giờ nghĩ tới bản thân nàng; nàng nghĩ tới người ốm vì biết những điều cần làm và thu xếp rất chu tất. Nàng kể cho ông nghe chuyện mình, chuyện đám cưới, nàng mỉm cười, đầy vẻ thương xót, hết sức săn sóc ông, kể cho ông nghe những trường hợp khỏi bệnh, và mọi việc đều trôi chảy; như thế, tức là nàng có biết. Và những hoạt động của nàng, cũng như của Agafia Mikhailovna, không phải là bản năng, thú vật, không suy xét, vì ngoài những săn sóc về thể xác, làm dịu đau đớn, cả Agafia Mikhailovna lẫn Kitty đều đòi hỏi phải mang lại cho kẻ hấp hối một cái gì còn quan trọng hơn cả sự săn sóc và không liên quan gì với đời sống thể xác. Agafia Mikhailovna khi nhắc tới một ông già vừa mới chết có nói: “Đội ơn Chúa, ông lão đã chịu lễ ban thánh thể, được làm phép rửa tội, cầu Chúa cho mỗi người đều được chết như thế!”. Katya cũng vậy, ngoài mọi lo lắng về quần áo, thuốc men, bông băng, ngay từ hôm đầu đã thuyết phục được người ốm về sự cần thiết phải chịu lễ ban thánh thể và chịu phép lâm chung rửa tội.

Buổi tối, khi Levin quay về buồng riêng, chàng cứ ngồi yên, đầu cúi gằm, không biết làm gì. Chàng không thể ăn tối, sửa soạn chỗ ngủ, suy nghĩ về những việc sẽ phải làm, chàng cũng không dám nói chuyện với vợ: chàng cảm thấy ân hận. Kitty trái lại, càng hoạt bát hơn ngày thường. Nàng sai dọn ăn tối, tự mình tháo hành lí, giúp việc trải giường và không quên rắc bột sát trùng lên giường. Ở nàng toát ra cái sôi nổi, cái khả năng nhận xét nhanh nhạy thường thấy ở những trang nam nhi trước khi xung trận, trước cuộc đấu tranh, trong nguy hiểm hoặc vào những phút quyết định đời mình, những phút mà người đàn ông dứt khoát trổ hết tài trí và tỏ rằng quá khứ không uổng phí vô ích mà chỉ là chuẩn bị cho giây phút hiện tại.

Chưa đến nửa đêm mà mọi cái đã đâu vào đấy; đồ đạc bày biện theo sở thích riêng và gian buồng trở nên giống căn nhà họ: giường đã trải xong, bàn chải, lược gương bày trên bàn, khăn mặt treo lên.

Levin thấy không thể ăn, ngủ, thậm chí cả trò chuyện nữa và cảm thấy mỗi cử chỉ của mình đều luống cuống. Còn nàng thì vẫn xếp bàn chải, nhưng mọi việc nàng làm đều không có chút gì là chướng cả. Tuy nhiên, cả hai đều không ăn gì và khuya rồi vẫn chưa chợp mắt, thậm chí cũng không định đi nằm nữa.

– Em rất hài lòng đã thuyết phục Được anh ấy đồng ý chịu lễ rửa tội ngày mai, – nàng nói, và mình khoác áo choàng ngồi xuống trước tấm gương dùng khi đi đường, chải mái tóc mềm và thơm bằng chiếc lược xinh xắn.

– Em chưa bao giờ được xem làm lễ rửa tội, nhưng mẹ nói người ta còn cầu kinh để chữa bệnh nữa.

– Chắc em không tin anh ấy có thể khỏi được chứ, – Levin nói, mắt nhìn đường ngôi hẹp đằng sau mái đầu tròn nhỏ luôn luôn biến mất mỗi lần nàng đưa lược chải về đằng trước.

– Em đã hỏi bác sĩ: ông ta bảo anh ấy không sống nổi quá ba ngày nữa đâu. Nhưng chắc gì họ biết đích xác? Dù sao em cũng rất hài lòng đã thuyết phục được anh ấy, – nàng nói, khẽ liếc nhìn chàng qua mớ tóc. – Mọi việc đều có thể xảy ra, – nàng nói thêm với cái vẻ đặc biệt, hơi láu lỉnh thường thấy trên mặt nàng mỗi khi bàn đến tôn giáo.

Kể từ sau lần giãi bày tâm sự hồi sắp cưới, cả hai đều không bao giờ nhắc đến vấn đề đó nữa, nhưng nàng vẫn làm tròn công việc bổn đạo với lòng tin bình thản là đã làm tròn phận sự. Mặc dầu chàng đã nói rõ quan niệm ngược lại của mình, nàng vẫn đinh ninh rằng nếu chàng không ngoan đạo hơn thì cũng bằng mình và tất cả những lời chàng nói về việc đó chỉ là một cách bông lơn của đàn ông, như khi chàng nói về tấm thêu kiểu Anh 1. “Những người đứng đắn thì mạng lại những lỗ rách, còn em, em lại mua vui bằng cách khoét nó ra” v.v…

– Phải, cái chị Maria Nicolaievna, chị ta không biết cách thu xếp những loại việc đó, – Levin nói. – Còn… anh phải thú nhận là anh rất hài lòng về việc em đã cùng đến đây. Em trong trắng đến nỗi… – chàng cầm tay nàng nhưng không hôn (hẳn chàng thấy hôn tay khi có người sắp chết kề bên là bất tiện) nắm chặt lấy và nhìn vào đôi mắt sáng long lanh của nàng với một vẻ phạm lỗi.

– Nếu chỉ có mình anh đến thì thật kinh khủng quá nàng nói và giơ hai cánh tay lên che đôi má đỏ bừng, vì vui sướng, cuốn tròn bím tóc trên gáy và lấy trâm cài lại.

– Phải, – nàng nói tiếp, – chị ấy không biết… Còn em, may quá, em đã học được rất nhiều ở Xođen.

– Ở đó có người ốm nặng như thế này không?

– Còn nặng hơn nữa kia.

– Điều kinh khủng nhất là anh không thể không nhớ lại hình ảnh anh ấy hồi còn trẻ… Em không thể tin trước kia anh ấy là một thanh niên đáng yêu như thế nào… nhưng hồi đó, anh chưa hiểu rõ anh ấy.

– Có chứ, em tin, rất tin thế. Đáng lẽ chúng mình thân với anh ấy từ trước mới phải, – nàng nói và bỗng lo sợ vì những lời thốt ra; nàng quay lại chồng và rưng rưng nước mắt.

– Phải, lẽ ra nên thế từ trước mới đúng, – chàng buồn rầu nói.

– Anh ấy chính thuộc loại người mà ta nói là sinh ra không hợp thời thế này.

– Chúng ta còn phải vất vả nhiều ngày nữa đấy, đi ngủ thôi, – Kitty nói, sau khi xem giờ ở chiếc đồng hồ nhỏ xíu.

CÁI CHẾT

Hôm sau, bệnh nhân chịu lễ ban thánh thể và chịu phép lâm chung rửa tội. Trong buổi lễ, Nicolai Levin đã sôi nổi cầu nguyện. Đôi mắt ông mở to chăm chú nhìn bức tượng thánh đặt trên bàn đánh bài phủ tấm khăn nhuộm màu, lộ rõ một niềm hi vọng thiết tha đến nỗi Levin phát hoảng. Chàng biết những lời cầu nguyện những hi vọng đó sẽ càng làm nặng nề thêm việc xa lìa cuộc sống mà ông xiết bao yêu quý. Levin hiểu rõ anh trai và quá trình tư tưởng của ông; chàng biết việc ông không tin đạo tuyệt nhiên không xuất phát từ chỗ ông cho rằng sống không tín ngưỡng vẫn dễ dàng hơn, mà do những giải thích theo khoa học đương thời về những hiện tượng trên thế gian, từng bước một, đã đánh bạt tín ngưỡng của ông, cho nên chàng hiểu sự khôi phục tín ngưỡng hiện nay của anh hoàn toàn không phải là kết quả bình thường của vận động trí tuệ mà là một nhượng bộ tạm thời, vụ lợi, với hi vọng phi lí là sẽ khỏi bệnh. Levin cũng biết Kitty đã củng cố hi vọng đó bằng những chuyện khỏi bệnh thần kì. Chàng biết mọi việc đó, và rất đỗi khổ tâm khi trông thấy cái nhìn cầu khẩn, tràn đầy hi vọng cùng bàn tay gầy đét khó nhọc giơ lên vầng trán xương xẩu để làm dấu thánh giá, đôi vai xo ro, bộ ngực lép kẹp thở khò khè đã đến lúc không đủ sức chứa cuộc sống mà người bệnh cầu xin. Trong khi làm lễ, Levin đã làm cái mà chàng, vốn không tin đạo, từng làm hàng nghìn lần rồi. Chàng nói với Chúa: “Nếu quả Người có thực, hãy làm cho người này khỏi bệnh, và thế là Người đã cứu cả hai chúng tôi”.

Sau lễ rửa tội, người bệnh bỗng nhiên cảm thấy khoẻ khoắn hơn nhiều. Cả một giờ sau đó, ông không ho lần nào; ông mỉm cười, vừa hôn tay Kitty, vừa rơm rớm nước mắt cảm ơn nàng, và cho biết ông thấy dễ chịu, không đau chỗ nào nữa, thấy trở lại khỏe mạnh và thèm ăn. Ông còn ngồi nhổm dậy một mình khi xúp mang tới và đòi ăn thịt băm viên. Tuy hết mọi hi vọng, và mặc dầu chỉ nhìn vẻ mặt người ốm cũng biết chắc không thể khỏi được, Levin và cả Kitty đều sống giờ phút đó với tâm trạng phấn khởi sung sướng, xen lẫn nỗi lo bị nhầm lẫn.

– Anh ấy có khá hơn không? – Có, khá hơn nhiều lắm. – Thật kì lạ! – Chẳng có gì kì lạ hết! Quả là anh ấy có khoẻ hơn thật, họ thì thầm và mỉm cười với nhau.

Ảo tưởng đó không kéo dài được bao lâu. Người bệnh ngủ yên giấc, nhưng nửa giờ sau, cơn ho đánh thức ông dậy. Và đột nhiên, mọi hi vọng biến mất ở bàn thân ông ta cũng như ở mọi người xung quanh. Thực tế cơn bệnh đã phá tan mọi hi vọng.

Không buồn đả động tới điều trước đây nửa giờ ông còn tin tưởng, dường như chỉ nhớ tới cũng đủ hổ thẹn, ông đòi hít thuốc i ốt. Levin đưa cho ông chiếc lọ con bọc một mảnh giấy châm thủng lỗ chỗ. Ông vẫn nhìn chàng bằng cặp mắt hi vọng mãnh liệt như khi chịu lễ lâm chung rửa tội, tựa hồ đang chờ đợi sự chứng thực cho lời nói thầy thuốc bảo đảm việc hít thuốc i ốt sẽ đưa đến hiệu quả thần kì.

– Kitty có đấy không? – ông hỏi, giọng khàn khàn, liếc nhìn chung quanh, trong khi Levin miễn cưỡng nhắc lại cho ông nghe những lời thầy thuốc. – Không à, nếu thế tôi có thể nói được… chính vì thím ấy mà tôi đóng kịch đó thôi. Thím ấy tốt quá, nhưng còn tôi với chú, ta không thể hi vọng hão được. Tôi chỉ tin có cái này thôi, – ông nói, nắm chặt chiếc lọ trong bàn tay xương xẩu, và hối hả hít thuốc.

Đến tám giờ tối, Levin đang cùng vợ ngồi uống trà ở buồng riêng thì Maria Nicolaievna thở hổn hển chạy bổ vào.

– Anh ấy đang hấp hối! – bà ta lắp bắp nói. – Tôi e chết đến nơi mất.

Cả hai người chạy đến buồng ông ta. Ông ngồi trên giường tì một bên khuỷu tay, lưng gù xuống, đầu cúi gằm.

– Anh thấy thế nào? – Levin thì thầm hỏi sau một lát im lặng.

– Tôi thấy tôi đang đi đây, – Nicolai nói, gắng gượng nhưng rành rọt lạ thường, chậm rãi lẩy từng chữ ra khỏi lồng ngực. Ông không ngửng đầu mà chỉ ngước mắt nhìn lên nhưng không tới nổi mặt em trai.

– Katya, thím ra đi! – ông lại nói thêm.

Levin đứng phắt dậy, và giọng nghiêm nghị, khẽ bảo vợ đi ra.

– Tôi sắp đi thôi, – ông nhắc lại.

– Tại sao anh lại tin như vậy? – Levin nói cho có chuyện.

– Vì tôi sắp đi đây, – ông nhắc lại như ưa thích câu đó. – Thế là hết.

Maria Nicolaievna đến gần.

– Mình nằm xuống dễ chịu hơn, – bà ta nói.

– Tôi cũng sắp sửa nằm thôi, – ông nói, giọng dịu dàng, rồi lại nói thêm, vẻ nhạo báng, tức giận, – sắp chết thôi. Nhưng cho tôi nằm xuống cũng được, tuỳ các người.

Levin đặt anh nằm ngửa, ngồi xuống cạnh và nín thở, ngắm nghía khuôn mặt ông ta. Kẻ hấp hối nhằm mắt lại, những thớ thịt ở trán đôi lúc lại động đậy như đang căng hết trí não suy nghĩ sâu xa. Levin bất giác cũng nghĩ tới điều đang diễn biến trong ông lúc này, nhưng mặc dầu đã gắng hết sức theo dõi, chàng chỉ cần nhìn vẻ mặt bình thản và nghiêm nghị cùng những thớ thịt đang giần giật trên đôi lông mày kẻ hấp hối, cũng đủ biết ông ta đã khám phá mỗi lúc một rõ ràng cái điều còn mờ mịt đối với Levin.

– Phải, phải, ra thế đấy, người hấp hối thong thả nói dóng một – Khoan đã, – ông ta lại nín lặng. – Thế đấy, – ông đột nhiên nói, giọng quả quyết như thể mọi đều đã giải quyết xong. – Ôi! Lạy Chúa tôi! – ông kêu lên và thở dài đánh thượt.

Maria Nicolaievna sờ chân ông.

Chươmg 20

Kể từ khi Alecxei Alecxandrovich, qua câu chuyện trao đổi với Betxy và Stepan Ackađich, suy luận ra rằng người ta chỉ yêu cầu ông để mặc cho vợ được yên thân, đừng làm phiền nàng bằng sự có mặt của mình, và chính nàng cũng muốn như vậy, ông hoang mang đến nỗi không thể quyết định được điều gì, tự mình cũng không hiểu giờ đây mình muốn gì, và trong khi phó thác số phận vào tay những người rất vui thích được can thiệp vào việc của ông, ông đã ưng thuận mọi sự. Mãi tới khi Anna bỏ nhà ra đi và cô gia sư người Anh cho đến hỏi là sẽ cùng ăn với ông hay ăn riêng, ông mới hiểu rõ ràng hoàn cảnh mình và hoảng sợ.

Điều khổ tâm nhất là ông hoàn toàn không thể dung hoà được dĩ vãng với hiện tại. Phải đâu là cái dĩ vãng, cái thời kì còn sống hạnh phúc với vợ, làm ông bối rối. Ông đã đau đớn cam chịu bước quá độ từ dĩ vãng đó đến lúc biết vợ bội bạc. Tình trạng đó thật nặng nề nhưng có thể hiểu được. Giá sau khi thú nhận đã bội bạc, vợ ông bỏ đi ngay thì có lẽ ông sẽ ô nhục, đau khổ, nhưng sẽ không lâm vào tình thế khó hiểu và hầu như không lối thoát hiện nay. Giờ đây, ông không thể vá víu cái dĩ vãng mới đây, tình âu yếm, thương yêu đối với người vợ ốm và đứa trẻ không phải con ông, vào với hiện tại, nói cách khác là với cái tình cảnh cô đơn, ô danh, lố bịch, vô tích sự và bị mọi người khinh bỉ mà ông đang lâm vào, coi như phần thưởng cho mọi tình cảm tốt đẹp nói trên. Hai ngày sau khi vợ bỏ đi, Alecxei Alecxandrovich tiếp những người đến cầu cạnh, đi họp và ăn trưa ở phòng ăn như thường lệ. Cũng không tự cắt nghĩa tại sao mình làm như vậy, trong hai hôm đó, ông dốc toàn tâm toàn ý vào mục tiêu duy nhất: tỏ vẻ bình tĩnh và thậm chí dửng dưng nữa. Khi sai thu dọn đồ đạc và phòng của Anna Arcadievna, ông đã cố gắng phi thường để tỏ vẻ coi những biến cố vừa xảy ra chẳng có gì là bất ngờ và cũng chẳng khác gì những sự việc bình thường. Ông đã đạt mục đích: không ai ngờ ông tuyệt vọng cả. Nhưng ngày thứ ba sau hôm Anna bỏ đi, khi Kornây đem tới hoá đơn của cửa hàng y phục nữ mà Anna quên không thanh toán và cho biết gã bán hàng đang đợi ở ngoài, Alecxei Alecxandrovich bèn cho gọi hắn vào.

– Thưa quan lớn, xin ngài thứ lỗi cho tôi đã mạo muội làm phiền ngài. Nếu phải gửi hoá đơn này cho bà lớn, thì xin quan lớn làm ơn cho biết địa chỉ bà nhà.

Alecxei Alecxandrovich ra vẻ suy nghĩ, rồi đột nhiên quay mặt đi và ngồi xuống trước bàn giấy. Hai tay ôm đầu, ông ngồi mãi như thế; ông định nói mấy lần, song lại thôi.

Hiểu rõ nỗi lòng chủ, Kornây bảo gã bán hàng hôm khác trở lại. Còn lại một mình, Alecxei Alecxandrovich cảm thấy không đủ sức đảm đương vai kịch nữa. Ông cho tháo ngựa khỏi xe đang chờ, đóng cửa không tiếp khách và cũng không ra khỏi phòng để ăn trưa nữa.

Ông thấy không còn chịu đựng nổi sự công kích tứ bề của vẻ khinh mạn và tàn nhẫn mà ông nhìn thấy rất rõ trên các bộ mặt của gã bán hàng, của Kornây, của tất cả mọi người ông gặp, trong hai ngày đó, không trừ một ai. Ông cảm thấy không thể tránh được sự ghét bỏ của mọi người vì nó trút xuống đầu ông không phải vì ông xấu xa (nếu vậy ông có thể cố gắng tốt hơn), mà vì ông khổ sở ghê gớm. Ông biết họ tàn nhẫn chính vì cõi lòng ông đang tan nát. Ông cảm thấy mọi người sẽ xâu xé ông như đàn chó cắn xé một con chó đầy mình thương tích và đang rống lên đau đớn. Ông biết phương pháp duy nhất để thoát khỏi bọn họ là giấu kín vết thương đi và chính ông đã theo bản năng thử làm như vậy trong hai ngày đầu, nhưng bay giờ, ông thẩy rõ mình không còn đủ sức.

Nỗi tuyệt vọng càng tăng vì ông biết rõ mình hoàn toàn cô độc trong đau buồn. Ông không có ai ở Petersburg hoặc bất cứ nơi nào để tâm sự mọi nỗi niềm và khiến họ thương xót, ông không phải với tư cách một quan chức cao cấp hoặc một thành viên xã hội, mà giản dị với tư cách một người đau khổ.

Alecxei Alecxandrovich mồ côi từ thuở nhỏ. Ông có hai anh em. Ông không nhớ bố ra sao. Còn mẹ thì chết hồi ông mới mười tuổi. Tài sản để lại cũng ít ỏi. Ông chú Karenin, một quan chức trọng yếu, ngày xưa là triều thần sủng ái của tiên đế, đã nhận nuôi nấng dạy dỗ hai anh em.

Sau khi tốt nghiệp trung học và Đại học vào loại ưu, Alecxei Alecxandrovich, dưới sự che chở của chú, đã hiển hách bước vào con đường công danh sự nghiệp và chuyên tâm hiến mình vào đó. Cả ở trung học và Đại học, cả sau này nữa, ông không hề kết bạn với ai. Người anh đối với ông là thân nhất, nhưng ông ta làm việc ở Bộ ngoại giao, phần lớn thời gian đều sống ở nước ngoài và chết ở đó ít lâu sau khi Alecxei Alecxandrovich lấy vợ.

Hồi ông còn làm tỉnh trưởng, bà cô của Anna, một mệnh phụ rất giàu, đã tạo cơ hội thuận lợi cho viên quan còn trẻ này (so với phẩm hàm) gặp gỡ chuyện trò với cháu gái và đặt ông vào tình thế chỉ còn cách cầu hôn hoặc bỏ thành phố mà đi.

Alecxei Alecxandrovich đã lưỡng lự khá lâu. Ông có đầy đủ lí lẽ để tán thành cũng như phản đối cuộc hôn nhân đó, mặt khác ông không đủ cương quyết làm trái với nguyên tắc của mình: “Khi còn nghi ngờ, hãy dè chừng”. Nhưng bà cô Anna nhờ người đánh tiếng cho biết là ông đã làm tổn hại đến thanh danh cô gái và nhiệm vụ người đàn ông trọng danh dự buộc ông phải cầu hôn. Ông đànhưng thuận và trao tất cả yêu thương có thể có cho vị hôn thê, sau trở thành vợ.

Mối tình gắn bó ông với Anna loại trừ trong tâm hồn ông những nhu cầu cuối cùng về quan hệ thân ái với người xung quanh. Và giờ đây, trong tất cả những người thường đi lại, ông không có ai thân thiết. Ông có vô số chỗ “giao du”, nhưng không có bạn tri âm.

Alecxei Alecxandrovich quen rất nhiều người có thể mời đến ăn uống, thăm dò ý kiến về công việc hoặc có thể giúp đỡ một người cầu cạnh, có thể cùng họ tự do chỉ trích hành động của các nhân vật khác hoặc chính phủ, nhưng quan hệ của ông với những người đó chỉ hạn chế trong một phạm vi chật hẹp, không vượt ra khỏi khuôn khổ lề thói cố định.

Ông có một người bạn cùng học ở Đại học, và sau đi lại thân thiết hơn, có thể thổ lộ nỗi buồn phiền được, nhưng ông này lại làm đốc học ở một học khu xa xôi. Những người thân thuộc duy nhất ở Petersburg là chánh văn phòng và thầy thuốc của ông.

Mikhain Vaxilievich Xliudin, chánh văn phòng của ông, là người đứng đắn, giản dị, thông minh và tốt bụng, Alecxei Alecxandrovich rất có cảm tình với ông ta, nhưng năm năm làm việc hành chính đã dựng lên giữa họ một hàng rào ngăn cách mọi thổ lộ tâm tình.

Sau khi kí xong công văn giấy tờ, Alecxei Alecxandrovich thường nín lặng hồi lâu, thỉnh thoảng lại nhìn Mikhain Vaxilievich và đã nhiều lần thử gợi chuyện mà không được. Ông đã sắp sẵn câu mào đầu “ông có nghe thấy người ta xì xào gì về nỗi bất hạnh của tôi không?”, nhưng cuối cùng lại nói như thường lệ: “Thế nhé, ông chuẩn bị công việc này cho tôi”, và cho ông ta lui.

Người kia là bác sĩ cũng có thiện cảm với ông, nhưng từ lâu, giữa họ đã có một thoả thuận ngầm, là cả hai đều rất bận và luôn luôn vội vã.

Còn những chỗ quen biết thuộc phái nữ, kể cả bà bạn thân nhất là nữ bá tước Lidia Ivanovna, Alecxei Alecxandrovich chả hơi đâu mà nghĩ tới. Ông thấy ghê tởm và khiếp sợ tất cả các bà, đơn giản chỉ vì họ là phụ nữ.

 

 

 

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s

%d bloggers like this: