The Alchemist (Chapter 6)
Nhà Giả Kim
Paulo Coelho
24
“Tức cười thật”, cậu chăn cừu – chính là gã Arập trẻ kia – thầm nghĩ khi đọc lại cảnh đám tang tả ngay đầu quyển sách. “Mình đã bắt đầu đọc từ gần hai năm trước, thế mà vẫn không hết nổi mấy trang đầu.”
Tuy chẳng ông vua nào cắt ngang, cậu cũng không tập trung nổi. Vì cậu chưa dứt khoát với quyết định của mình. Nhưng cậu nghiệm ra một điều quan trọng: quyết định mới chỉ là bước khởi đầu. Khi đã quyết định rồi thì ta trôi nổi trong một dòng sông cuồn cuộn chảy; nó cuốn ta theo đến một nơi mà lúc quyết định ta không hề dám nghĩ tới.
“Khi lên đường tìm kho tàng có đời nào mình lại nghĩ rằng sẽ làm việc trong một cửa hàng pha lê đâu”, cậu thấy điều mình vừa ngẫm nghĩ đã được chứng nghiệm. “Cũng như mình quyết định đi với đoàn lữ hành này nhưng nó sẽ dẫn mình tới đâu thì vẫn là điều bí mật”.
Chàng người Anh ngồi trước mặt cậu cũng đọc. Anh có vẻ không mấy thân thiện và đã khinh khỉnh nhìn cậu bước vào. Lẽ ra họ có thể thành bạn được, nhưng mà anh ta không muốn trò chuyện. Cậu gấp sách lại vì không muốn làm bất cứ điều gì mà anh chàng người Âu kia cũng đang làm. Thế là cậu moi túi lấy ra hai viên Urim và Thummim nghịch chơi.
Anh chàng kia kêu lên: “Urim và Thummim!”
“Không bán đâu”, Cậu vội vàng nhét đá vào túi.
“Chúng chẳng quí gì lắm đâu”, chàng người Anh nói. “Chỉ là thạch anh thôi. Thạch anh thì trên trái đất này thiếu giống gì; còn với người sành thì đó là Urim và Thummim. Tôi không biết là ở đây cũng có đấy”.
“Đây là tặng vật của một vị vua”, cậu đáp.
Anh chàng kia không nói nữa mà móc túi quần lấy ra hai viên giống như thế.
“Cậu vừa nói đến một vị vua thì phải”, anh ta nói.
“Và anh không tin rằng có một ông vua nào lại đi trò chuyện với một kẻ chăn cừu tầm thường chứ gì”, cậu muốn chấm dứt câu chuyện.
“Hoàn toàn ngược lại. Trẻ chăn cừu là những kẻ đầu tiên nhận biết một vị Vua trong khi toàn thế giới không chịu nhìn nhận Người. Cho nên vua chúa trò chuyện với người chăn cừu là điều dám có lắm chứ.”
Rồi vì sợ rằng cậu không hiểu ý mình, anh ta nói thêm: “Chuyện đó có trong Kinh Thánh đấy, đó chính là quyển sách đã dạy tôi sử dụng Urim và Thummim. Loại đá này là thứ duy nhất Chúa cho phép dùng để bói toán. Các tu sĩ đeo nó trên áo giáp bằng vàng ròng”.
Nghe tới đây thì cậu chăn cừu mừng quá.
“Có lẽ đây là dấu hiệu” chàng người Anh nói với chính mình, như thể ngẫm nghĩ rồi buột miệng
“Ai kể cho anh về dấu hiệu?” Cậu hỏi, càng lúc càng thêm quan tâm
“Mọi thứ ở trên đời đều là dấu hiệu cả”, anh kia gấp sách lại đáp. “Vũ trụ là một ngôn ngữ ai cũng có thể hiểu nhưng chúng ta đã quên mất. Cả tôi cũng đang đi tìm nhiều thứ, trong đó có thứ ngôn ngữ bằng dấu của vũ trụ. Chính vì thế mà tôi đến đây. Tôi phải tìm cho ra một người biết rõ thứ ngôn ngữ này, một nhà giả kim”.
Người chủ nhà kho cắt đứt câu chuyện của họ.
“Các anh may mắn lắm đấy”, người Arập mập mạp này nói. “Xế trưa nay một đoàn lữ hành sẽ lên đường đi El Fayum”.
“Nhưng tôi sẽ đi Ai Cập cơ mà”, cậu chăn cừu đáp.
“El Fayum ở Ai Cập chứ sao”, ông ta trả lời. “Cậu là thứ Arập gì mà không biết điều này?”
Cậu bé chăn cừu bèn đáp rằng mình là người Tây Ban Nha. Nghe thế anh chàng người Anh mừng quá, vì tuy cậu ăn mặc như người Arập nhưng hóa ra lại là người Âu.
“Hắn dùng chữ “may mắn” khi nói về dấu hiệu”, người Anh nhận xét khi chủ kho đi khỏi. “Nếu có khả năng thì tôi sẽ viết một quyển toàn thư dày về hai từ “may mắn” và “ngẫu nhiên”, vì hai từ này là một phần của thứ ngôn ngữ vũ trụ kia”.
Sau đó anh ta giải thích rằng không phải ngẫu nhiên anh ta gặp cậu với hai viên Urim và Thummim trong tay. Anh ta hỏi có phải cậu cũng trên đường đi tìm nhà giả kim kia không.
“Tôi đang trên đường đi tìm một kho tàng”, cậu đáp rồi ân hận đã lỡ lời. Nhưng chàng người Anh nọ không hề để ý.
“Tôi cũng thế, nếu hiểu theo một nghĩa nào đó”, anh ta nói.
“Đúng ra tôi chẳng hiểu thuật giả kim nghĩa là gì”, cậu vừa nói thì chủ nhà kho kêu họ ra.
25
“Tôi là trưởng đoàn lữ hành”, một ông râu dài, mắt đen nói. “Tức là tôi chịu trách nhiệm về sự sống hay cái chết của từng người. Vì sa mạc giống như một người đàn bà tính khí thất thường, có khi làm chúng ta phát điên lên được”.
Gần hai trăm người cộng với số súc vật nhiều gấp đôi – lạc đà, ngựa, lừa và chim – tụ tập lại. Có cả đàn bà, trẻ con; một vài người đàn ông gươm dắt lưng hoặc súng khoác vai. Anh chàng người Anh đem theo nhiều hòm đầy sách. Tiếng ồn ào rộ lên ở bãi khiến người trưởng đoàn phải lớn tiếng lập lại nhiều lần để mọi người đều hiểu điều ông nói.
“Trong đoàn có nhiều người thờ nhiều thần thánh khác nhau. Nhưng Thượng Đế duy nhất của tôi là Allah và tôi thề với Người rằng tôi sẽ nỗ lực làm hết sức để lần này chúng ta cũng thắng được sa mạc. Bây giờ tôi yêu cầu mỗi người trong đoàn thề với Thần, với Chúa của mình rằng sẽ nghe theo lời tôi vô điều kiện, trong mọi tình huống. Vì trong sa mạc thì không nghe lời tôi có thể sẽ đưa đến cái chết”.
Tiếng rì rầm cất lên, ai nấy đều thề trước Thần và Chúa của mình sẽ tuân lời. Cậu chăn cừu thề với Chúa Jesu. Anh chàng người Anh im lặng. Tiếng rì rầm kéo dài thêm một lúc nữa vì người ta còn cầu xin được che chở. Rồi tiếng tù và vang lên, mỗi người leo lên con vật của mình. Cậu chăn cừu và chàng người Anh đều mua lạc đà nên leo lên khá vất vả. Cậu thấy tội nghiệp con lạc đà của anh kia vì những hòm sách nặng chất đầy lưng nó.
“Trên đời không có gì ngẫu nhiên đâu”, chàng người Anh tìm cách nối lại câu chuyện hồi nãy trong nhà kho. “Một người quen đã đưa tôi đến đây, vì anh ta biết một người Arập, người này…”
Vì đoàn rục rịch lên đường nên cậu không nghe ra được anh ta nói gì. Song cậu biết anh ta nói về điều này: về một chuỗi những sự kiện thần bí, trong đó sự kiện này gắn với sự kiện kế tiếp; chúng xui khiến cậu trở thành người chăn cừu, rồi nhiều lần mơ cùng một giấc mơ; chúng đưa cậu đến một thành phố gần châu Phi để rồi gặp một ông vua; chúng khiến cho cậu bị lừa bịp hết sạch tiền, để rồi cậu làm quen với một người bán hàng pha lê, rồi…
“Càng sống được giống như trong giấc mơ thì đường đời lại càng trùng hợp với mục đích muốn đạt đến trong đời”, cậu nghĩ.
26
Đoàn người đi về hướng mặt trời mọc. Họ đi vào buổi sáng, nghỉ chân khi mặt trời đứng bóng, xế trưa lại đi tiếp. Cậu chăn cừu ít trò chuyện với anh chàng người Anh vì anh ta thường chúi mũi vào sách. Thế là cậu bèn lặng lẽ quan sát cuộc hành trình của người và vật qua sa mạc. Giờ thì mọi thứ khác hẳn ngày đầu. Hôm ấy thật là ồn ào và lộn xộn; tiếng con nít khóc lẫn với tiếng thú vật kêu, thêm tiếng các trưởng toán và các khách thương gắt gỏng ra lệnh. Trong sa mạc, ngược lại, chỉ có tiếng gió thổi liên tục, sự yên ắng và tiếng chân thú vật. Ngay cả các trưởng toán cũng ít trò chuyện với nhau.
“Tôi đã nhiều lần đi qua những đồi cát này”, một người phu lạc đà kể vào một buổi chiều tối. “Nhưng vẫn thấy sa mạc quá mênh mông, chân trời thì xa tít tắp khiến con người thấy mình vô cùng nhỏ bé và kính sợ đến không nói nên lời”.
Tuy chưa từng vượt sa mạc cậu vẫn rất hiểu ý người phu nọ. Mỗi khi nhìn biển cả hay ánh lửa cậu đều thường ngồi lặng hàng giờ, không nghĩ ngợi gì, chỉ trực cảm quyền lực của thiên nhiên vô cùng vô tận.
“Mình đã học được từ bầy cừu và các món hàng pha lê, tại sao sa mạc lại không dạy mình được ít điều chứ”, cậu ngẫm nghĩ. “Sa mạc, theo mình, còn cổ xưa và thông tuệ hơn nhiều.”
Gió thổi mãi không ngừng. Cậu nhớ lại cái ngày ngồi đón chính ngọn gió này trên cổ thành ở Tarifa. Có thể lúc này đây ngọn gió đang ve vuốt lông lũ cừu của cậu khi chúng đang đi tìm cỏ và nước trên vùng Andalusia bát ngát.
“Đúng ra chúng đâu còn là cừu của mình nữa”, cậu nghĩ và không thấy tiếc nuối. “Nhất định chúng đã quen với chủ mới và quên mình rồi. Thế là phải. Ai quen lang thang đây đó nhiều như lũ cừu đều biết rằng nhất định sẽ có một ngày phải chia tay thôi – giống như phải lên đường.”
Rồi cậu nghĩ đến cô con gái chủ tệim vải và đinh ninh rằng cô đã lấy chồng. Có thể cô đã lấy một người bán kem, hoặc một chàng chăn cừu cũng biết đọc và biết kể những chuyện thú vị trên đời. Cậu nào phải là người chăn cừu duy nhất có bản lĩnh đó đâu. Rồi cậu đoán già đoán non rằng có thể cậu đang trên đường lĩnh hội được loại ngôn ngữ vũ trụ, bao trùm cả quá khứ lẫn tương lai của nhân loại. Phỏng đoán này làm cậu phấn khởi. Mẹ cậu vẫn quen gọi đó là “trực cảm”. Cậu dần dà hiểu rằng cảm nhận bằng trực giác nghĩa là tâm linh mình bất chợt chìm ngập trong dòng chảy của toàn vũ trụ, nơi cuộc đời của mọi con người đều liên kết thành một chuỗi, nơi mọi chuyện đều tỏ rõ, vì tất cả đều “đã được viết sẵn” từ trước rồi.
“MAKTUB”, cậu nói và nhớ đến ông chủ hàng pha lê. Sa mạc chỉ toàn cát với đá. Khi đoàn gặp một vùng toàn đá thì họ phải tìm cách đánh vòng khá xa. Còn khi cát quá mịn đối với chân lạc đà thì họ tìm lối khác có lớp cát chắc hơn. Thỉnh thoảng lại thấy có vùng phủ đầy muối vì trước kia nơi đó là biển. Gặp những nơi như thế thì lũ vật thồ giở chứng bất kham không chịu đi tiếp khiến những người phu lạc đà phải dỡ hàng xuống, vác hàng trên vai, vượt qua những nơi địa hình hiểm trở rồi mới lại chất lên như trước. Khi một trưởng toán ngã bệnh hay chết dọc đường thì các phu lạc đà rút thăm cử người thay. Nhưng dù có phải đi vòng bao nhiêu đi nữa thì đoàn vẫn không bao giờ quên đích. Khi đã vượt qua mọi chướng ngại rồi thì sao trên trời sẽ lại chỉ cho họ hướng của ốc đảo. Rạng đông, khi thấy sao sáng trên bầu trời là họ biết rằng sao kia báo hiệu một nơi có phụ nữ, nước, chà là và cây cọ. Chỉ có chàng người Anh là chẳng biết gì cả vì hầu như anh ta chỉ chúi đầu vào sách. Cậu chăn cừu cũng có một quyển sách và cậu thử đọc trong mấy ngày đầu. Nhưng rồi cậu thấy quan sát đoàn là lắng nghe tiếng gió thú vị hơn. Rồi khi đã quen dần và thấy quí con lạc đà của mình thì cậu quẳng quyển sách đó đi. Tuy rằng mỗi khi giở nó ra đọc cậu vẫn hi vọng một các dị đoan rằng sẽ gặp được trong đó một nhân vật lẫy lừng, nhưng giờ đây cậu cho nó chỉ là gánh nặng vô ích.
Lúc này cậu đã quen thân với người phu lạc đà vẫn đi cạnh mình. Tối tối, khi tất cả quây quần bên đống lửa, cậu kể cho ông ta chuyện thời còn đi chăn cừu. Trong một lần chuyện vãn như thế ông ta kể cậu nghe về đời mình.
“Tôi sống ở một nơi gần Al Kahira”, ông ta nói. “Tôi có một vườn rau, một lũ con và một cuộc sống êm đềm mà tôi ngỡ rằng cho đến ngày chết cũng không thay đổi. Một năm nọ được mùa bội thu, thế là chúng tôi hành hương đến Mekka để làm một bổn phận duy nhất chưa hoàn tất trong đời tôi. Tôi có thể yên tâm nhắm mắt được rồi và lòng tôi thanh thản lắm. Nhưng một ngày kia động đất, nước sông Nil tràn qua đê. Điều mà tôi tưởng rằng chỉ xảy ra cho người khác đã đến với chính mình. Lũ lụt khiến hàng xóm sợ mất vườn ô-liu, vợ tôi sợ lũ con có thể chết đuối, còn tôi hoảng kinh lo động đất sẽ tàn phá cơ nghiệp của mình. Nhưng sợ cũng thế thôi. Sau vụ đó đất đai không trồng trọt gì được nữa và tôi phải tìm cách khác để nuôi sống gia đình. Cho nên hôm nay tôi làm phu lạc đà. Nhưng lúc ấy tôi thấm thía lời dạy của Allah: không ai phải lo trước về điều chưa xảy tới cả vì mỗi người đều có thể đạt được cái mình muốn và cái mình cần. Chúng tôi chỉ lo mất cơ nghiệp, sợ cho mạng sống và cây cối của mình thôi. Nhưng nỗi sợ đã qua đi khi hiểu rằng diễn biến của đời mình và cả của quả đất đều đã được một bàn tay Người viết trước cả rồi”.
27
Thỉnh thoảng họ gặp một đàon lữ hành khác trong đêm mà đoàn này luôn luôn đang có cái mà đoàn kia thiếu, như thể đúng là tất cả đều do một bàn tay quyết định vậy. Các toán trưởng trao đổi thông tin về bão cát và tụ tập bên đống lửa kể đủ chuyện về sa mạc. Một lần khác đoàn gặp những người Beduin ăn mặc kín từ đầu tới chân trông rất là thần bí; Họ theo dõi lộ trình của từng đoàn lữ hành để cảnh báo đoàn về các bọn cướp và về các bộ tộc hiếu chiến. Họ đến và đi đều lặng lẽ, ăn mặc toàn đen, chỉ để hở đôi mắt. Vào một buổi tối như thế người phu lạc đà đến tìm cậu chăn cừu đang ngồi cùng chàng người Anh bên đống lửa.
“Nghe đồn rằng có thể xảy ra đánh nhau giữa các bộ lạc”, ông ta nói.
Họ ngồi lặng thinh. Cậu chăn cừu cảm thấy có một nỗi sợ bàng bạc đâu đó tuy không ai nói gì cả. Một lần nữa cậu lại hiển được thứ ngôn ngữ không lời, ngôn ngữ của vũ trụ. Một lúc sau chàng người Anh mới hỏi có nguy hiểm gì không.
“Ai đã vào sa mạc rồi thì không quay lại được nữa”, người phu lạc đà nói. “Khi không còn đường lui thì chúng ta phải tìm ra cách nào tốt nhất để tiến tới. Mọi chuyện khác phó thác cho Allah, kể cả sự nguy hiểm”.
Và ông ta kết thúc bằng cái từ thần bí: “Maktub”.
“Anh nên chú ý quan sát các đoàn lữ hành kĩ hơn”, cậu nói với chàng người Anh sau khi người phu đi khỏi. “Họ phải đi lòng vòng hoài đấy nhưng lúc nào cũng nhắm hướng mục tiêu”.
“Còn cậu nên đọc nhiều hơn về thế giới đi thôi”, chàng kia đáp. “Sách cũng bổ ích như đoàn lữ hành vậy”.
Đoàn người và vật dài dằng dặc đi nhanh hơn tới phía trước. Không phải họ chỉ giữ yên lặng trong ban ngày, mà ngay cả tối đến họ cũng chỉ rì rầm trò chuyện quanh đống lửa. Rồi một ngày nọ trưởng đoàn quyết định không được đốt lửa nữa để tránh gây chú ý. Họ quây đám thú vật lại thành một vòng tròn, còn người chen chúc bên trong cho đỡ lạnh; trưởng đoàn còn cắt đặt người mang vũ khí canh gác vòng ngoài.
Một đêm chàng người Anh không ngủ được. Anh ra rủ cậu đi dạo qua các đồi cát trải dài quanh khu trại. Đêm đó trăng tròn. Cậu kể cho anh ta về đời mình. Anh ta thích thú nghe chuyện cửa hàng pha lê làm ăn khấm khá lên từ khi có cậu giúp việc ở đấy.
“Đó là nguyên lí cơ bản chi phối mọi sự đấy”, anh ta bảo. “Trong thuật luyện kim đan người ta gọi nó là tâm linh vũ trụ. Khi ta tha thiết mong ước điều gì thì ta gần gũi với tâm linh vũ trụ hơn. Nó luôn luôn có tác dụng tích cực”
Anh ta còn nói rằng điều này không phải là đặc trưng của con người đâu. Mọi loài trên trái đất đều có tâm linh, dù đó là khoáng vật, cây cỏ hay thú vật; thậm chí ngay cả một ý niệm cũng thế.
“Mọi thứ trên trái đất đều biến dịch không ngừng, vì thế giới này sống động và có một tâm linh. Chúng ta là một bộ phận của tâm linh này và hiếm khi chúng ta ý thức được rằng nó có ảnh hưởng tích cực đến việc chúng ta làm. Và cậu nên biết rằng ngay cả từng chiếc bình pha lê trong cái tiệm nọ đều đã góp phần vào sự thành công của cậu đấy”.
Cậu im lặng ngắm nhìn mặt trăng và cát trắng. Lát sau cậu nói: “Tôi đã quan sát đoàn suốt dọc đường đi qua sa mạc. Đoàn và sa mạc nói cùng một thứ tiếng nên đoàn được phép đi băng qua nó. Đoàn cân nhắc từng bước đi một để được hoà điệu thì đoàn đến được ốc đảo. Bất cứ ai trong chúng ta đến đây, dù can đảm có thừa nhưng không hiểu được thứ ngôn ngữ ấy thì sẽ chết ngay từ đầu”.
Hai người cùng ngắm mặt trăng.
“Đó chính là phép kì diệu của dấu hiệu”, cậu nói tiếp. “Tôi đã nhìn thấy được các trưởng toán nhận biết ra dấu hiệu của sa mạc như thế nào, cũng như cách tâm linh của đoàn hội ý với tâm linh sa mạc”
Lát sau chàng người Anh nói: “Tôi phải quan tâm đến đoàn nhiều hơn mới được”.
“Còn tôi thì cần phải đọc lô sách của anh”, cậu đáp.
28
Đó thật là những quyển sách kì lạ, viết về thủy ngân, muối, rồng và vua chúa. Cậu chẳng hiểu gì cả. Dẫu sao cũng có môt ý chính xuyên suốt gần hết mọi quyển, đó là: mọi sự vật đều góp phần diễn giải cho tổng thể. Trong một quyển nọ cậu phát hiện ra rằng văn bản quan trọng nhất của thuật luyện kim đan chỉ vẻn vẹn có mấy hàng thôi, viết trên một phiến ngọc lục bảo.
“Tên nó là Tabula smaragdina”, chàng người Anh nói, tự hào vì đã dạy cho cậu được ít điều mới.
“Tất cả những sách này dùng vào việc gì?”
“Để diễn giải những hàng chữ đó”, anh đáp song có vẻ không tự tin lắm.
Quyển sách cậu chăn cừu thích hơn cả kể về cuộc đời những nhà luyện kim đan nổi tiếng nhất. Họ là những người hiến cả đời mình cho việc tinh hóa im loại trong phòng thí nghiệm. Họ tin rằng khi kim loại được nung nóng nhiều năm thì chúng sẽ mất đi những tính chất nguyên thủy, chỉ còn lại cái tâm linh vũ trụ thôi. Tâm linh vũ trụ này sẽ giúp họ hiểu được mọi sự trên mặt đất, vì nó là thứ ngôn ngữ kết nối mọi sự vật với nhau. Họ gọi phát kiến này là “Đại công trình”, gồm một phần lỏng và một phần rắn.
“Chẳng lẽ quan sát con người và dấu hiệu không đủ để phát kiến ngôn ngữ này sao?” Cậu hỏi
“Cậu chỉ giỏi giản đơn hóa tất cả”, chàng người Anh bực mình đáp. “Luyện kim đan là một việc quan trong, đòi hỏi mỗi bước phải làm đúng theo chỉ dẫn của thầy”.
Cậu được biết phần lỏng của “Đại công trình” gọi là “Thuốc trường sinh bất lão”, chữa được mọi bệnh tật, khiến nhà luyện kim đan trẻ mãi. Phần rắn gọi là “Đá tạo vàng”.
“Phát hiện ra “Đá tạo vàng” có phải đơn giản đâu”, chàng người Anh nói. “Các nhà luyện kim đan kiên trì nhiều năm trong phòng thí nghiệm, nhìn ngọn lửa tinh hóa kim loại. Họ nhìn ngọn lửa cho đến khi mọi cao ngạo của thế giới này biến mất dần. Rồi một ngày kia họ nhận thấy rằng tinh hóa kim loại cũng là trong sách hóa chính mình”.
Nghe thế cậu liền liên tưởng đến người chủ của hàng pha lê. Ông ta thấy rằng rất nên lau chùi các bình trong cửa hàng vì như thế cả ông lẫn cậu đều gột rửa được mọi tạp niệm. Bây giờ thì cậu tin chắc rằng cũng có thể học được thuật luyện kim đan trong cuộc sống hàng ngày.
“Hơn nữa”, anh ta nói tiếp, “Đá tạo vàng có một tính chất độc đáo. Chỉ cần một mảnh vụn của nó đủ biến một khối lượng lớn kim loại thành vàng”.
Nghe thế cậu lại càng quan tâm hơn đến thuật luyện kim đan. Cậu nghĩ chỉ cần chút ít kiên nhẫn là có thể biến tất cả thành vàng. Cậu đọc lại cuộc đời một vài người đã làm được việc này: Helvatius, Elias, Fulcanelli, Geber. Toàn là những chuyện hấp dẫn cả. Những người này đều đã đi trọn con đường đời họ chọn. Họ đi đây đi đó, gặp gỡ các bậc trí giả khác, làm những việc thần kì ngay trước mắt những kẻ hồ nghi; họ có trong tay “Đá tạo vàng” và “Thuốc trường sinh” Nhưng khi cậu muốn biết làm cách nào để tự mình đạt được “Đại công trình” thì đành bó tay, vì chỉ có những đồ họa, những chỉ dẫn ghi bằng mật mã và những văn bản khó hiểu
29
“Cớ sao mà mọi thứ viết ra khó hiểu thế?” Một tối kia cậu hỏi chàng người Anh để rồi thấy anh ta có vẻ bực bội và muốn lấy lại sách.
“Để chỉ những ai thật nghiêm chỉnh nghiền ngẫm mới hiểu được thôi”, anh ta đáp. “Cậu thử nghĩ mà xem, nếu ai cũng biến chỉ thành vàng được thì vàng còn gì là giá trị. Chỉ những ai kiên tâm trì chí, chỉ những ai nghiên cứu nhiều mới đạt được “Đại công trình” một cách trọn vẹn. Chính vì thế mà tôi đến tận giữa sa mạc này để tìm gặp một nhà luyện kim đan chính cống giúp tôi giải mã cái ngôn ngữ bí mật kia”.
“Những sách này được viết hồi nào?” Cậu hỏi
“Từ nhiều thế kỉ trước”
“Hồi đó làm gì đã có sách in”, cậu khăng khăng cãi. “Thành ra không phải bất kì ai cũng biết đến thuật luyện kim đan. Vậy thì việc gì phải dùng đến thứ ngôn ngữ kì quặc kia và những đồ họa?”
Anh kia không trả lời câu hỏi của cậu mà nói rằng đã quan sát đoàn lữ hành mấy ngày nay song chẳng phát hiện gì mới. Điều duy nhất anh ta cảm thấy là tin đồn về đánh nhau cứ dồn dập thêm.
The Alchemist
by Paulo Coelho
Chapter 6
“That’s strange,” said the boy, as he tried once again to read the burial scene that began the book. “I’ve been trying for two years to read this book, and I never get past these first few pages.” Even without a king to provide an interruption, he was unable to concentrate.
He still had some doubts about the decision he had made. But he was able to understand one thing: making a decision was only the beginning of things. When someone makes a decision, he is really diving into a strong current that will carry him to places he had never dreamed of when he first made the decision.
When I decided to seek out my treasure, I never imagined that I’d wind up working in a crystal shop, he thought. And joining this caravan may have been my decision, but where it goes is going to be a mystery to me.
Nearby was the Englishman, reading a book. He seemed unfriendly, and had looked irritated when the boy had entered. They might even have become friends, but the Englishman closed off the conversation.
The boy closed his book. He felt that he didn’t want to do anything that might make him look like the Englishman. He took Urim and Thummim from his pocket, and began playing with them.
The stranger shouted, “Urim and Thummim!”
In a flash the boy put them back in his pocket.
“They’re not for sale,” he said.
“They’re not worth much,” the Englishman answered. “They’re only made of rock crystal, and there are millions of rock crystals in the earth. But those who know about such things would know that those are Urim and Thummim. I didn’t know that they had them in this part of the world.”
“They were given to me as a present by a king,” the boy said.
The stranger didn’t answer; instead, he put his hand in his pocket, and took out two stones that were the same as the boy’s.
“Did you say a king?” he asked.
“I guess you don’t believe that a king would talk to someone like me, a shepherd,” he said, wanting to end the conversation.
“Not at all. It was shepherds who were the first to recognize a king that the rest of the world refused to acknowledge. So, it’s not surprising that kings would talk to shepherds.”
And he went on, fearing that the boy wouldn’t understand what he was talking about, “It’s in the Bible. The same book that taught me about Urim and Thummim. These stones were the only form of divination permitted by God. The priests carried them in a golden breastplate.”
The boy was suddenly happy to be there at the warehouse.
“Maybe this is an omen,” said the Englishman, half aloud.
“Who told you about omens?” The boy’s interest was increasing by the moment.
“Everything in life is an omen,” said the Englishman, now closing the journal he was reading. “There is a universal language, understood by everybody, but already forgotten. I am in search of that universal language, among other things. That’s why I’m here. I have to find a man who knows that universal language. An alchemist.”
The conversation was interrupted by the warehouse boss.
“You’re in luck, you two,” the fat Arab said. “There’s a caravan leaving today for Al-Fayoum.”
“But I’m going to Egypt,” the boy said.
“Al-Fayoum is in Egypt,” said the Arab. “What kind of Arab are you?”
“That’s a good luck omen,” the Englishman said, after the fat Arab had gone out. “If I could, I’d write a huge encyclopedia just about the words luck and coincidence. It’s with those words that the universal language is written.”
He told the boy it was no coincidence that he had met him with Urim and Thummim in his hand. And he asked the boy if he, too, were in search of the alchemist.
“I’m looking for a treasure,” said the boy, and he immediately regretted having said it. But the Englishman appeared not to attach any importance to it.
“In a way, so am I,” he said.
“I don’t even know what alchemy is,” the boy was saying, when the warehouse boss called to them to come outside.
*
“I’m the leader of the caravan,” said a dark-eyed, bearded man. “I hold the power of life and death for every person I take with me. The desert is a capricious lady, and sometimes she drives men crazy.”
There were almost two hundred people gathered there, and four hundred animals—camels, horses, mules, and fowl. In the crowd were women, children, and a number of men with swords at their belts and rifles slung on their shoulders. The Englishman had several suitcases filled with books. There was a babble of noise, and the leader had to repeat himself several times for everyone to understand what he was saying.
“There are a lot of different people here, and each has his own God. But the only God I serve is Allah, and in his name I swear that I will do everything possible once again to win out over the desert. But I want each and every one of you to swear by the God you believe in that you will follow my orders no matter what. In the desert, disobedience means death.”
There was a murmur from the crowd. Each was swearing quietly to his or her own God. The boy swore to Jesus Christ. The Englishman said nothing. And the murmur lasted longer than a simple vow would have. The people were also praying to heaven for protection.
A long note was sounded on a bugle, and everyone mounted up. The boy and the Englishman had bought camels, and climbed uncertainly onto their backs. The boy felt sorry for the Englishman’s camel, loaded down as he was with the cases of books.
“There’s no such thing as coincidence,” said the Englishman, picking up the conversation where it had been interrupted in the warehouse. “I’m here because a friend of mine heard of an Arab who…”
But the caravan began to move, and it was impossible to hear what the Englishman was saying. The boy knew what he was about to describe, though: the mysterious chain that links one thing to another, the same chain that had caused him to become a shepherd, that had caused his recurring dream, that had brought him to a city near Africa, to find a king, and to be robbed in order to meet a crystal merchant, and…
The closer one gets to realizing his destiny, the more that destiny becomes his true reason for being, thought the boy.
The caravan moved toward the east. It traveled during the morning, halted when the sun was at its strongest, and resumed late in the afternoon. The boy spoke very little with the Englishman, who spent most of his time with his books.
The boy observed in silence the progress of the animals and people across the desert. Now everything was quite different from how it was that day they had set out: then, there had been confusion and shouting, the cries of children and the whinnying of animals, all mixed with the nervous orders of the guides and the merchants.
But, in the desert, there was only the sound of the eternal wind, and of the hoofbeats of the animals. Even the guides spoke very little to one another.
“I’ve crossed these sands many times,” said one of the camel drivers one night. “But the desert is so huge, and the horizons so distant, that they make a person feel small, and as if he should remain silent.”
The boy understood intuitively what he meant, even without ever having set foot in the desert before. Whenever he saw the sea, or a fire, he fell silent, impressed by their elemental force.
I’ve learned things from the sheep, and I’ve learned things from crystal, he thought. I can learn something from the desert, too. It seems old and wise.
The wind never stopped, and the boy remembered the day he had sat at the fort in Tarifa with this same wind blowing in his face. It reminded him of the wool from his sheep… his sheep who were now seeking food and water in the fields of Andalusia, as they always had.
“They’re not my sheep anymore,” he said to himself, without nostalgia. “They must be used to their new shepherd, and have probably already forgotten me. That’s good. Creatures like the sheep, that are used to traveling, know about moving on.”
He thought of the merchant’s daughter, and was sure that she had probably married. Perhaps to a baker, or to another shepherd who could read and could tell her exciting stories—after all, he probably wasn’t the only one. But he was excited at his intuitive understanding of the camel driver’s comment: maybe he was also learning the universal language that deals with the past and the present of all people. “Hunches,” his mother used to call them. The boy was beginning to understand that intuition is really a sudden immersion of the soul into the universal current of life, where the histories of all people are connected, and we are able to know everything, because it’s all written there.
“Maktub,” the boy said, remembering the crystal merchant.
The desert was all sand in some stretches, and rocky in others. When the caravan was blocked by a boulder, it had to go around it; if there was a large rocky area, they had to make a major detour. If the sand was too fine for the animals’ hooves, they sought a way where the sand was more substantial. In some places, the ground was covered with the salt of dried- up lakes. The animals balked at such places, and the camel drivers were forced to dismount and unburden their charges. The drivers carried the freight themselves over such treacherous footing, and then reloaded the camels. If a guide were to fall ill or die, the camel drivers would draw lots and appoint a new one.
But all this happened for one basic reason: no matter how many detours and adjustments it made, the caravan moved toward the same compass point. Once obstacles were overcome, it returned to its course, sighting on a star that indicated the location of the oasis. When the people saw that star shining in the morning sky, they knew they were on the right course toward water, palm trees, shelter, and other people. It was only the Englishman who was unaware of all this; he was, for the most part, immersed in reading his books.
The boy, too, had his book, and he had tried to read it during the first few days of the journey. But he found it much more interesting to observe the caravan and listen to the wind. As soon as he had learned to know his camel better, and to establish a relationship with him, he threw the book away. Although the boy had developed a superstition that each time he opened the book he would learn something important, he decided it was an unnecessary burden.
He became friendly with the camel driver who traveled alongside him. At night, as they sat around the fire, the boy related to the driver his adventures as a shepherd.
During one of these conversations, the driver told of his own life.
“I used to live near El Cairum,” he said. “I had my orchard, my children, and a life that would change not at all until I died. One year, when the crop was the best ever, we all went to Mecca, and I satisfied the only unmet obligation in my life. I could die happily, and that made me feel good.
“One day, the earth began to tremble, and the Nile overflowed its banks. It was something that I thought could happen only to others, never to me. My neighbors feared they would lose all their olive trees in the flood, and my wife was afraid that we would lose our children. I thought that everything I owned would be destroyed.
“The land was ruined, and I had to find some other way to earn a living. So now I’m a camel driver. But that disaster taught me to understand the word of Allah: people need not fear the unknown if they are capable of achieving what they need and want.
“We are afraid of losing what we have, whether it’s our life or our possessions and property. But this fear evaporates when we understand that our life stories and the history of the world were written by the same hand.”
Sometimes, their caravan met with another. One always had something that the other needed—as if everything were indeed written by one hand. As they sat around the fire, the camel drivers exchanged information about windstorms, and told stories about the desert.
At other times, mysterious, hooded men would appear; they were Bedouins who did surveillance along the caravan route. They provided warnings about thieves and barbarian tribes. They came in silence and departed the same way, dressed in black garments that showed only their eyes. One night, a camel driver came to the fire where the Englishman and the boy were sitting. “There are rumors of tribal wars,” he told them.
The three fell silent. The boy noted that there was a sense of fear in the air, even though no one said anything. Once again he was experiencing the language without words… the universal language.
The Englishman asked if they were in danger.
“Once you get into the desert, there’s no going back,” said the camel driver. “And, when you can’t go back, you have to worry only about the best way of moving forward. The rest is up to Allah, including the danger.”
And he concluded by saying the mysterious word: “Maktub.”
“You should pay more attention to the caravan,” the boy said to the Englishman, after the camel driver had left. “We make a lot of detours, but we’re always heading for the same destination.”
“And you ought to read more about the world,” answered the Englishman. “Books are like caravans in that respect.”
The immense collection of people and animals began to travel faster. The days had always been silent, but now, even the nights—when the travelers were accustomed to talking around the fires—had also become quiet. And, one day, the leader of the caravan made the decision that the fires should no longer be lighted, so as not to attract attention to the caravan.
The travelers adopted the practice of arranging the animals in a circle at night, sleeping together in the center as protection against the nocturnal cold. And the leader posted armed sentinels at the fringes of the group.
The Englishman was unable to sleep one night. He called to the boy, and they took a walk along the dunes surrounding the encampment. There was a full moon, and the boy told the Englishman the story of his life.
The Englishman was fascinated with the part about the progress achieved at the crystal shop after the boy began working there.
“That’s the principle that governs all things,” he said. “In alchemy, it’s called the Soul of the World. When you want something with all your heart, that’s when you are closest to the Soul of the World. It’s always a positive force.”
He also said that this was not just a human gift, that everything on the face of the earth had a soul, whether mineral, vegetable, or animal—or even just a simple thought.
“Everything on earth is being continuously transformed, because the earth is alive… and it has a soul. We are part of that soul, so we rarely recognize that it is working for us. But in the crystal shop you probably realized that even the glasses were collaborating in your success.”
The boy thought about that for a while as he looked at the moon and the bleached sands. “I have watched the caravan as it crossed the desert,” he said. “The caravan and the desert speak the same language, and it’s for that reason that the desert allows the crossing. It’s going to test the caravan’s every step to see if it’s in time, and, if it is, we will make it to the oasis.”
“If either of us had joined this caravan based only on personal courage, but without understanding that language, this journey would have been much more difficult.”
They stood there looking at the moon.
“That’s the magic of omens,” said the boy. “I’ve seen how the guides read the signs of the desert, and how the soul of the caravan speaks to the soul of the desert.”
The Englishman said, “I’d better pay more attention to the caravan.”
“And I’d better read your books,” said the boy.
*
They were strange books. They spoke about mercury, salt, dragons, and kings, and he didn’t understand any of it. But there was one idea that seemed to repeat itself throughout all the books: all things are the manifestation of one thing only.
In one of the books he learned that the most important text in the literature of alchemy contained only a few lines, and had been inscribed on the surface of an emerald.
“It’s the Emerald Tablet,” said the Englishman, proud that he might teach something to the boy.
“Well, then, why do we need all these books?” the boy asked.
“So that we can understand those few lines,” the Englishman answered, without appearing really to believe what he had said.
The book that most interested the boy told the stories of the famous alchemists. They were men who had dedicated their entire lives to the purification of metals in their laboratories; they believed that, if a metal were heated for many years, it would free itself of all its individual properties, and what was left would be the Soul of the World. This Soul of the World allowed them to understand anything on the face of the earth, because it was the language with which all things communicated. They called that discovery the Master Work—it was part liquid and part solid.
“Can’t you just observe men and omens in order to understand the language?” the boy asked.
“You have a mania for simplifying everything,” answered the Englishman, irritated. “Alchemy is a serious discipline. Every step has to be followed exactly as it was followed by the masters.”
The boy learned that the liquid part of the Master Work was called the Elixir of Life, and that it cured all illnesses; it also kept the alchemist from growing old. And the solid part was called the Philosopher’s Stone.
“It’s not easy to find the Philosopher’s Stone,” said the Englishman. “The alchemists spent years in their laboratories, observing the fire that purified the metals. They spent so much time close to the fire that gradually they gave up the vanities of the world. They discovered that the purification of the metals had led to a purification of themselves.”
The boy thought about the crystal merchant. He had said that it was a good thing for the boy to clean the crystal pieces, so that he could free himself from negative thoughts. The boy was becoming more and more convinced that alchemy could be learned in one’s daily life.
“Also,” said the Englishman, “the Philosopher’s Stone has a fascinating property. A small sliver of the stone can transform large quantities of metal into gold.”
Having heard that, the boy became even more interested in alchemy. He thought that, with some patience, he’d be able to transform everything into gold. He read the lives of the various people who had succeeded in doing so: Helv?ius, Elias, Fulcanelli, and Geber. They were fascinating stories: each of them lived out his destiny to the end. They traveled, spoke with wise men, performed miracles for the incredulous, and owned the Philosopher’s Stone and the Elixir of Life.
But when the boy wanted to learn how to achieve the Master Work, he became completely lost. There were just drawings, coded instructions, and obscure texts.
*
“Why do they make things so complicated?” he asked the Englishman one night. The boy had noticed that the Englishman was irritable, and missed his books.
“So that those who have the responsibility for understanding can understand,” he said. “Imagine if everyone went around transforming lead into gold. Gold would lose its value.
“It’s only those who are persistent, and willing to study things deeply, who achieve the Master Work. That’s why I’m here in the middle of the desert. I’m seeking a true alchemist who will help me to decipher the codes.”
“When were these books written?” the boy asked.
“Many centuries ago.”
“They didn’t have the printing press in those days,” the boy argued. “There was no way for everybody to know about alchemy. Why did they use such strange language, with so many drawings?”
The Englishman didn’t answer him directly. He said that for the past few days he had been paying attention to how the caravan operated, but that he hadn’t learned anything new. The only thing he had noticed was that talk of war was becoming more and more frequent.